Gọng Vó (Drosera burmannii Vahl.)
3 sản phẩm
Dược sĩ Thanh Hương Dược sĩ lâm sàng
Ước tính: 2 phút đọc,
Ngày đăng:
Cập nhật:
Gọng vó được viết đến mà một loài cây hiện nay đang kích thích sự nghiên cứu tìm tòi về các ứng dụng trong y học của các nhà nghiên cứu. Trong bài viết này, Trung Tâm Thuốc xin gửi đến bạn đọc những thông tin chi tiết về cây Gọng vó.
1 Giới thiệu về cây Gọng Vó
Gọng vó hay còn gọi là Sundrew có tên khoa học là Drosera burmannii Vahl. thuộc họ Gọng vó - Droseraceae.
Đây là một loại thảo mộc ăn côn trùng, là một trong những chi thực vật ăn thịt lớn nhất với hơn 105 loài.
1.1 Đặc điểm thực vật
Gọng vó là thực vật có những tính chất tương tự như cây nắp ấm và cây bắt ruồi, từ lâu chúng đã chiếm một vị trí đặc biệt trong văn hóa đại chúng về ngành thực vật.
Đây là cây thân thảo (không thân gỗ) lâu năm (hoặc hiếm khi là hàng năm) , tạo thành các hoa hồng nằm ngang hoặc thẳng đứng có chiều cao từ 1 cm (0,4 in.) đến 1 mét (39 in.), tùy thuộc vào loài. Các loài leo núi tạo thành các thân leo có thể dài hơn nhiều, lên đến 3 mét (10 ft.) trong trường hợp của D. erythrogyna . Gọng vó đã được chứng minh là có thể đạt được tuổi thọ 50 năm. Chi này chuyên hấp thụ chất dinh dưỡng thông qua loài ăn thịt của nó đến mức ít nhất trong trường hợp của loài lùn lùn, nó thiếu các enzym ( đặc biệt là nitrat reductase ) mà thực vật thường sử dụng để hấp thụ nitrat trong đất.
1.2 Đặc điểm phân bố
Với gần 200 loài được tìm thấy trong tự nhiên ở mọi châu lục trừ Nam Cực, gọng vó từ lâu đã được tích hợp vào hệ thống kiến thức của người bản địa từ các địa phương xa xôi như Indonesia, Bắc Mỹ và Úc. Một số người bản địa dường như đã quen thuộc với việc thịt của thực vật từ lâu trước cả người châu u và hành vi này đã ảnh hưởng đến ý nghĩa văn hóa của chúng đối với nhiều cộng đồng bản địa.
Phạm vi của chi Gọng vó trải dài từ Alaska ở phía bắc đến New Zealand ở phía nam. Các trung tâm đa dạng là Úc (với khoảng 50% tổng số loài đã biết), Nam Mỹ (hơn 20 loài) và miền nam châu Phi (hơn 20 loài). Một số loài cũng được tìm thấy ở phần lớn lục địa Á- u và Bắc Mỹ . Tuy nhiên, những khu vực này có thể được coi là tạo thành vùng ngoại vi của phạm vi chung, vì phạm vi của sundews thường không tiếp cận các khu vực ôn đới hoặc bắc cực . Không giống như giả định trước đây, sự hình thành loài tiến hóa của chi này không còn được cho là đã xảy ra với sự tan rã củaGondwana qua trôi dạt lục địa. Thay vào đó, sự hình thành loài hiện được cho là đã xảy ra do sự phân tán rộng rãi sau đó trong phạm vi của nó. Nguồn gốc của chi được cho là ở Châu Phi hoặc Úc.
1.3 Đặc điểm sinh thái
Gọng vó thường phát triển trong môi trường ẩm ướt theo mùa hoặc hiếm hơn là ẩm ướt liên tục với đất chua và nhiều ánh sáng mặt trời. Các môi trường sống phổ biến bao gồm đầm lầy , đầm lầy, đầm lầy , đầm lầy, tepuis của Venezuela , wallums ven biển Australia, Fynbos của Nam Phi và các bờ suối ẩm ướt. Nhiều loài phát triển cùng với rêu sphagnum, loại rêu hấp thụ nhiều chất dinh dưỡng của đất và cũng làm chua đất, làm cho chất dinh dưỡng ít có sẵn cho đời sống thực vật. Điều này cho phép Gọng vó vốn không phụ thuộc vào chất dinh dưỡng trong đất, phát triển mạnh ở những nơi có nhiều thảm thực vật chiếm ưu thế hơn thường vượt trội hơn chúng.
Điều đó đang được nói, chi này rất thay đổi về môi trường sống. Các loài Gọng vó riêng lẻ đã thích nghi với nhiều loại môi trường, bao gồm các môi trường sống không điển hình như rừng nhiệt đới, sa mạc (ví dụ D. burmannii và D. indica ) và thậm chí cả môi trường có nhiều bóng râm (Queensland Sundews). Các loài ôn đới, hình thành ngủ đông vào mùa đông, là một ví dụ về sự thích nghi như vậy với môi trường sống; nói chung, sundews có xu hướng thích khí hậu ấm áp hơn và chỉ có khả năng chống băng giá ở mức độ vừa phải.
1.4 Quá trình sinh sản của Gọng vó
Nhiều loài Gọng vó có khả năng tự sinh sản và hoa thường tự thụ phấn khi đóng cửa. Thường thì một lượng lớn hạt giống được sản xuất. Các hạt nhỏ màu đen nảy mầm để đáp ứng với độ ẩm và ánh sáng, trong khi hạt của các loài ôn đới cũng cần lạnh, ẩm và phân tầng để nảy mầm. Hạt của các loài củ cần một mùa hè khô nóng, sau đó là một mùa đông ẩm và mát để nảy mầm.
Sinh sản sinh dưỡng xảy ra tự nhiên ở một số loài tạo ra tấm bia hoặc khi rễ mọc sát bề mặt đất. Những lá già hơn chạm đất có thể mọc cây con. Gọng vó Pygmy sinh sản vô tính bằng cách sử dụng những chiếc lá giống như vảy chuyên dụng được gọi là gemmae. Củ có thể tạo ra sự bù đắp từ củ của chúng.
Trong văn hóa, gọng vó thường có thể được nhân giống thông qua việc cắt lá, ngọn hoặc rễ, cũng như thông qua hạt.
2 Thành phần hóa học
Một số hợp chất có tác dụng chữa bệnh được tìm thấy trong quả gọng vó, bao gồm flavinoid ( kaempferol, myricetin, quercetin và hyperoside), quinon (plumbagin, hydroplumbagin glucoside và rossoliside (7–methyl–hydrojuglone–4–glucoside)), và các thành phần khác như Carotenoid, thực vật. axit (ví dụ: axit butyric, axit xitric, axit formic , axit galic, axit malic, axit propionic), Nhựa, tanin và axit ascorbic (Vitamin C),...
3 Công dụng và cơ chế hoạt động của Gọng vó
3.1 Là một cây thuốc
Gọng vó đã được sử dụng làm dược liệu ngay từ thế kỷ 12, khi một bác sĩ người Ý từ Trường Salerno tên là Matthaeus Platearius đã mô tả loại cây này như một phương thuốc thảo dược chữa ho dưới cái tên " herba sole ".
Nó đã được sử dụng phổ biến trong các chế phẩm trị ho ở Đức và các nơi khác ở Châu Âu . Trà gọng vó được các nhà thảo mộc đặc biệt khuyên dùng để chữa ho khan, viêm phế quản, ho gà, hen suyễn và "co thắt phế quản". Một nghiên cứu hiện đại đã chỉ ra rằng Drosera có đặc tính chống ho.
Gọng vó cũng đã được sử dụng như một kích thích tình dục và tăng cường tim, cũng như điều trị cháy nắng và ngăn ngừa tàn nhang. Ngày nay chúng vẫn được sử dụng trong khoảng 200-300 loại thuốc đã đăng ký, thường là kết hợp với các hoạt chất khác.
Ngày nay Drosera thường được sử dụng để điều trị các bệnh như hen suyễn, ho, nhiễm trùng phổi và loét dạ dày.
Các chế phẩm thuốc chủ yếu được làm bằng rễ, hoa và viên nang giống như trái cây. Vì tất cả các loài cây bản địa đều được bảo vệ ở nhiều vùng của Châu u và Bắc Mỹ, nên chất chiết xuất thường được điều chế bằng cách sử dụng cây mọc nhanh (cụ thể là D. rotundifolia , D. intermedia , D. anglica , D. ramentacea và D. madagascariensis ) hoặc từ thực vật được thu thập và nhập khẩu từ Madagascar, Tây Ban Nha, Pháp, Phần Lan và vùng Baltics.
3.2 Sử dụng làm cây cảnh
Vì bản chất ăn thịt của chúng và vẻ đẹp của những chiếc bẫy lấp lánh của chúng, những chiếc nơ đã trở thành loại cây cảnh được yêu thích. Nhu cầu môi trường của hầu hết các loài tương đối nghiêm ngặt và có thể khó duy trì. Kết quả là, hầu hết các loài không có sẵn trên thị trường. Tuy nhiên, một số giống cứng cáp nhất đã xâm nhập vào ngành kinh doanh vườn ươm chính thống và thường có thể được rao bán bên cạnh bẫy ruồi Venus. Chúng thường bao gồm D. capensis , D. aliciae và D. spatulata .
Các loài khó trồng hơn cũng được trồng bởi một nhóm vài nghìn người đam mê cây ăn thịt trên toàn thế giới; hầu như mọi loài có thể được tìm thấy trong canh tác. Vì nhiều loài sundew chỉ được tìm thấy với số lượng nhỏ trong phạm vi rất hạn chế trong tự nhiên, nên một số loài đã bị đe dọa bởi việc thu hái nguyên liệu thực vật một cách hung hãn để canh tác.
Yêu cầu canh tác rất khác nhau tùy theo loài. Tuy nhiên, nói chung, sundews yêu cầu độ ẩm môi trường cao, thường ở dạng chất nền đất ẩm hoặc ẩm ướt liên tục. Hầu hết các loài cũng yêu cầu nước này phải tinh khiết, vì chất dinh dưỡng, muối hoặc khoáng chất trong đất có thể làm chúng còi cọc hoặc chết. Thông thường, cây được trồng trong chất nền đất có chứa một số hỗn hợp rêu sphagnum đã chết hoặc còn sống, rêu than bùn sphagnum , cát và/hoặc đá trân châu, và được tưới bằng nước cất, RO hoặc nước mưa.
4 Tài liệu tham khảo
- Tác giả NB Ghate và cộng sự, ngày đăng báo năm 2016. Sundew plant, a potential source of anti-inflammatory agents, selectively induces G2/M arrest and apoptosis in MCF-7 cells through upregulation of p53 and Bax/Bcl-2 ratio, pmc. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2023.
- Tác giả John Schaefer, ngày đăng báo năm 2022. Plant of the Month: Sundew, daily. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2023.