1. Trang chủ
  2. Tiêu hóa - Gan Mật Tụy
  3. Cảnh báo những bệnh lý gặp phải khi men gan bất thường

Cảnh báo những bệnh lý gặp phải khi men gan bất thường

Cảnh báo những bệnh lý gặp phải khi men gan bất thường

Trungtamthuoc.com - Men gan có vai trò quan trọng trong các quá trình chuyển hóa trong cơ thể, nó là chất xức tác để các phản ứng diễn ra. Khi có sự thay đổi trong men gan, chúng ta cần hết sức chú ý và thận trọng, bởi đó là nguyên nhân của nhiều bệnh lý nghiêm trọng, có thể kể đến như viêm gan virus cấp, viêm gan do nhiễm độc, viêm gan mạn, xơ gan...

Các xét nghiệm sinh hóa được thực hiện để đánh giá chức năng gan thông qua các chỉ số men gan. Các chỉ số có giá trị trong chẩn đoán bệnh là GOT, GPT, bilirubin máu.

1 Viêm gan virus cấp

Viêm gan do virus là một bệnh truyền nhiễm khá phổ biến, nó để lại cho người bệnh những hậu quả nặng nề, nguy hiểm nhất chính là ung thư gan. Các loại virus gây viêm gan như virus viêm gan A, B, C, D, E. Trong đó virus viêm gan B thường gặp nhất và lây truyền qua 3 con đường chính: truyền máu, tình dục và mẹ sang con.[1]

Viêm gan virus cấp
Viêm gan virus cấp

Khi bị viêm gan virus, 2 chỉ số GOT, GPT trong huyết tương tăng nhanh. GPT tăng sớm và nhanh hơn GOT, trước khi có  biểu hiện vàng da, chỉ số xét nghiệm có thể lên tới 2000 - 3000 U/l.

Hoạt độ GOT, GPT tăng hơn 10 lần, điều đó chứng tỏ các tế bào nhu mô gan bị hủy hoại mạnh, gây tổn thương cấp tính. Các chỉ số này tăng cao nhất ở 2 tuần đầu và giảm dần sau 7 - 8 tuần.

Khi viêm gan có kèm theo các trường hợp nhiễm khuẩn, cả 2 chỉ số GOT và GPT đều tăng cao thường < 200 U/l, đạt cực đại sau 2 - 3 tuần từ lúc bệnh khởi phát và trở về bình thường ở tuần thứ 5.

GGT cũng tăng cao, đây là chỉ số có ý nghĩa chẩn đoán sớm các bệnh lý về gan mật. Trong viêm gan virut cấp, hoạt độ GPT > GOT > LDH. 

Bilirubin tăng: Lúc đầu, ở giai đoạn vàng da cấp, có sự tăng của bilirubin trực tiếp chiếm, sau đó tăng của bilirubin gián tiếp một cách tương xứng. Sắt huyết tương tăng.

2 Viêm gan do nhiễm độc

Khi bị viêm gan do nhiễm độc, GPT tăng mạnh, hoạt độ của nó có thể tăng gấp 100 lần vo với mức bình thường. Đặc biệt tăng rất cao trong các trường hợp:

Nhiễm độc rượu cấp có mê sảng.

Hình ảnh viêm gan do nhiễm độc
Hình ảnh viêm gan do nhiễm độc

Nhiễm độc Tetrachlorua carbon (CCl4), Morphin hoặc nhiễm độc chất độc hóa học...[2]

Chỉ số LDH tăng cao hơn so với các enzym khác: LDH > GOT > GPT.

Trong các kết quả xét nghiệm, chỉ số GOT, GPT có tỷ lệ GOT/GPT > 1, thường gặp ở người bị bệnh gan và viêm gan do rượu.

3 Viêm gan mạn, xơ gan do rượu và các nguyên nhân khác

GOT tăng từ 2- 5 lần, GPT tăng ít hơn, mức độ tăng GOT nhiều hơn so với GPT.

4 Tắc mật cấp do sỏi gây tổn thương gan

Vàng da tắc mật: GOT, GPT chỉ tăng nhẹ, còn Alkaline phosphatase tăng hơn 3 lần so với bình thường. Nếu 2 chỉ số GOT, GPT tăng chậm đều đến rất cao (có thể hơn 2000 U/l), sau đó giảm đột ngột trong vòng 12 - 72h thì cảnh báo tắc nghẽn đường dẫn mật cấp tính. GPT đặc hiệu hơn trong các bệnh về gan còn GOT có thể tăng trong cả nhồi máu cơ tim.

Chỉ số gợi ý khả năng bệnh nhân bị sốc gan và hoại tử nhu mô tế bào gan: GOT tăng rất cao, có thể tới 1000 U/l, sau giảm dần đến 50% trong vòng 3 ngày, giảm xuống dưới 100 U/l trong vòng 1 tuần.

5 Bệnh lý gặp khi tăng bilirubin

Xét nghiệm bilirubin giúp chẩn đoán phân biệt một số bệnh vàng da. So với chỉ số bình thường, nếu Bilirubin toàn phần tăng hơn gấp đôi thì có biểu hiện vàng da.

Bệnh nhân bị vàng da
Bệnh nhân bị vàng da

5.1 Vàng da do tắc mật

Alkaline phosphatase huyết tương: Đây được coi là xét nghiệm tiêu chuẩn để đánh giá tắc mật. Nếu trên phiếu kết quả xét nghiệm trả về kết quả tăng 5 lần so với bình thường cảnh báo tắc nghẽn đường dẫn mật.

Có sự tăng của bilirubin trực tiếp và toàn phần, xuất hiện bilirubin niệu trong đó bilirubin trực tiếp tăng mạnh.

Trong trường hợp tắc đường mật ngoài gan, bilirubin có thể tăng dần đến tới mức 513 - 684 µmol/l (30 - 40 mg/dl).

5.2 Vàng da do tan máu (hủy huyết)

Dựa trên tỷ lệ bilirubin trực tiếp/bilirubin toàn phần để chẩn đoán phân biệt:

  • < 20%: gặp trong tình trạng huyết tán.
  • 20 - 40%: bệnh bên trong tế bào gan hơn là tắc nghẽn đường mật ngoài gan.
  • 40 - 60%: bệnh liên quan đến cả trong và ngoài gan.
  • > 50%: tắc nghẽn ở bên ngoài gan chiếm ưu thế.

Bilirubin gián tiếp tăng rất cao trong máu, bilirubin toàn phần tăng có khi tới 30-40 lần, thậm chí có thể tới 80 lần so với bình thường. Bilirubin niệu âm tính (có urobilinogen niệu).

Vàng da do tan máu gặp trong vàng da hủy huyết ở trẻ sơ sinh (vàng da sinh lý), sốt rét ác tính, rắn độc cắn (hổ mang) do nọc rắn có nồng độ enzym phospholipase A quá cao biến đổi lecithin thành lysolecithin là một chất làm giảm độ bền của màng, nhất là màng hồng cầu gây tan máu, gây các rối loạn chuyển hóa, nặng có thể tử vong.

5.3 Vàng da do tổn thương gan

Trong viêm gan virut cấp, bilirubin tăng sớm và xuất hiện ở nước tiểu trước khi có vàng da có urobilinogen niệu.

Do gan tổn thương làm giảm chuyển hóa bilirubin thành bilirubin LH (TT) nên bilirubin toàn phần tăng cao trong máu nhưng bilirubin trực tiếp giảm.

Trong suy gan, xơ gan nặng bilirubin LH giảm do chức năng gan giảm, làm giảm quá trình liên hợp bilirubin với acid glucuronic tạo bilirubin liên hợp ở gan.

Trong ung thư gan bilirubin toàn phần huyết thanh tăng rất cao có thể từ 10 đến 20 lần so với bình thường.

 NH3 máu tăng cao gặp trong một số bệnh gan như:

  • Suy gan.
  • Xơ gan nặng.
  • Hôn mê gan.

Xét nghiệm NH3 máu động mạch chính xác hơn máu tĩnh mạch, vì nó phản ánh đúng nồng độ NH3 trong máu đưa tới các tổ chức, mô gây nhiễm độc, đặc biệt gây nhiễm độc hệ thống thần kinh (não).

Các xét nghiệm thường làm về enzym để đánh giá chức năng gan:

  • GPT (Glutamat pyruvat transaminase).
  • Đánh giá tình trạng tổn thương tế bào nhu mô gan.

CHE thay đổi trong một số bệnh như:

  • Tăng cao trong một số bệnh liên quan đến thần kinh như chứng trầm cảm, tâm thần phân liệt.
  • Giảm mạnh trong các trường hợp bệnh nhân bị ngộ độc cấp và mạn với các chất độc thần kinh như Tabun, Sarin, Soman (chất độc hóa học quân sự)…

Điện di protein huyết tương, kết quả thay đổi như sau:

  • Albumin giảm.
  • α1, α2- globulin tăng trong giai đoạn đầu, sau giảm dần, β-globulin tăng kéo dài.
  • γ-globulin tăng thường xuyên.
  • Sau 1 - 2 tuần điều trị, GOT và GPT trở về bình thường, GGT trở về bình thường chậm nhất, nhưng khi GGT trở về bình thường sẽ cho biết tế bào nhu mô gan đã ổn định - điều đó có gợi ý là xét nghiệm GGT còn có ý nghĩa tiên lượng, điều trị bệnh viêm gan virut.

Sau giai đoạn vàng da của bệnh viêm gan virut cấp, nếu điều trị tốt thì sẽ chuyển sang giai đoạn lui bệnh. Đây là giai đoạn khởi đầu cho sự hồi phục. Các biểu hiện của giai đoạn này là:

  • Tăng bài niệu.
  • Bilirubin niệu giảm dần và biến mất trong khi bilirubin huyết tương vẫn còn cao so với bình thường.
  • Urobilinogen nước tiểu tăng.
  • Bilirubin huyết tương tăng.
  • Nếu theo dõi và điều trị không tốt, viêm gan virut cấp dễ chuyển sang viêm gan mạn.

6 Viêm gan do rượu

Tăng GGT kết hợp với MCV (thể tích trung bình hồng cầu) > 100 hoặc tăng riêng lẻ có giá trị chẩn đoán viêm gan do rượu.[3]

Viêm gan do rượu
Viêm gan do rượu

GOT tăng (<300U/l), nhưng GPT bình thường hoặc tăng nhẹ. Xét nghiệm GOT, GPT có độ đặc hiệu cao hơn nhưng độ nhạy thấp hơn so với GGT. Tỷ số GOT/GPT >1 kết hợp với GOT tăng (<300U/l) cho biết có khoảng 90% bệnh nhân bị bệnh gan do rượu. Điều này phân biệt với viêm gan virut có sự tăng đồng đều GOT và GPT.

Trong viêm gan do rượu cấp, GGT thường tăng cao nhanh, mức tăng GGT > GOT. GGT thay đổi bất thường trong viêm gan do rượu, thậm chí cả ở người có tiền sử bệnh gan bình thường.

Alkaline phosphatase, bilirubin huyết tương có thể bình thường hoặc tăng nhẹ nhưng không có giá trị chẩn đoán. Tuy nhiên, nếu bilirubin tiếp tục tăng trong suốt 1 tuần điều trị thì cần xem xét lại chẩn đoán.

7 Viêm gan mạn

Trong viêm gan mạn có 5 - 10% nguyên nhân là do có viêm gan virut B cấp. Nhìn chung viêm gan virut B cấp có thể chia làm 3 giai đoạn:

Giai đoạn viêm gan cấp:

  • Thường kéo dài 1 - 6 tháng với các triệu chứng:
  • GOT, GPT tăng hơn 10 lần so với bình thường.
  • Bilirubin bình thường hoặc tăng nhẹ.

Giai đoạn viêm gan mạn:

  • Enzym gan tăng hơn 50% kéo dài cho đến trên 6 tháng, có thể đến 1 năm hoặc nhiều hơn. Đa số các trường hợp bệnh được điều trị không tốt sẽ dẫn đến xơ gan và suy gan.
  • Hoạt độ GOT, GPT tăng 2-10 lần so với mức bình thường.

Giai đoạn hồi phục:

  • Bệnh nhân ổn định, khoẻ mạnh và hết các triệu chứng.
  • GOT, GPT huyết tương giảm về bình thường hoặc giảm đến giới hạn thấp.

Viêm gan mạn ổn định:

  • Các enzym thường được định lượng để theo dõi viêm gan mạn là GOT, GPT, GGT và CHE. Các xét nghiệm về enzym cho biết sự diễn biến, mức độ tổn thương tế bao nhu mô gan.
  • GOT, GPT và GGT tăng vừa phải (vì nhu mô gan tổn thương nhẹ).
  • ALP, GLDH, CHE ở giá trị bình thường.
  • Bilirubin toàn phần  tăng nhẹ, có thể lớn hơn 17,1 mmol/l.
  • Nếu không uống rượu, bia và chế độ làm việc nhẹ nhàng thì bệnh có tiên lượng tốt.

Viêm gan mạn tiến triển (hoạt động):

  • GOT và GPT tăng nhẹ, GGT và GLDH tăng mạnh phản ánh sự tổn thương nặng tế bào nhu mô gan.
  • CHE và các enzym đông máu giảm.
  • Bilirubin máu tăng.
  • Nếu điều trị không tốt, viêm gan mạn tiến triển dễ chuyển thành xơ gan, tiên lượng bệnh xấu hơn.
Viêm gan mạn tiến triển thành xơ gan
Viêm gan mạn tiến triển thành xơ gan

8 Xơ gan

Bilirubin thường tăng, có thể tăng dài trong nhiều năm, chủ yếu là tăng bilirubin tự do (trừ trường hợp xơ gan do tắc mật thì tăng bilirubin liên hợp). Sự dao động tăng, nhiều hay ít của bilirubin phản ánh tình trạng chức năng của gan. Nồng độ bilirubin tăng cao hơn gặp ở xơ gan sau hoại tử.

Hoạt độ GOT tăng cao (≤ 300 u/l) ở 65- 75% số bệnh nhân xơ gan. GPT tăng, mức tăng thấp hơn (< 200 u/l) trong 50% số bệnh nhân. Mức độ thay đổi GOT và GPT phản ánh sự hủy hoại tế bào nhu mô gan.

ALP tăng ở 40- 50% số bệnh nhân.

Protein huyết tương bình thường hoặc giảm nhẹ. Nếu tế bào gan chỉ bị hủy hoại nhẹ, chỉ số Albumin huyết tương có thể vẫn trong ngưỡng bình thường. Nếu chỉ số này giảm mạnh chứng tỏ rằng có xuất huyết hoặc tiến triển của cổ trướng.

Cholesterol toàn phần huyết tương bình thường hoặc giảm nhẹ.

Bilirubin niệu tăng, urobilinogen bình thường hoặc tăng.

Acid uric huyết tương thường tăng.

Cân bằng điện giải và cân ằng acid-base phản ánh sự rối loạn kết hợp khác nhau vào một thời điểm như suy dinh dưỡng, mất nước, xuất huyết, nhiễm toan chuyển hóa, nhiễm toan hô hấp.

Xơ gan
Xơ gan

8.1 Xơ gan do rượu

Tăng GOT, GPT, mức tăng gấp 4 - 5 lần so với lúc bình thường, GOT tăng nhiều hơn so với GPT.

GGT tăng cao, GLDH tăng nhẹ: 2 chỉ số này còn phản ánh mức độ nhiễm độc rượu và mức độ tổn thương tế bào gan.

ALP, bilirubin có thể bình thường.

CHE giảm.

8.2 Xơ gan sau viêm gan

Tiên lượng bệnh nặng hơn so với xơ gan do rượu. Các xét nghiệm sinh hóa thường thấy kết quả sau:

GOT và GPT tăng, GPT tăng mạnh hơn GOT.

GGT tăng, tuy nhiên mức tăng ít hơn so với xơ gan do rượu.

Tăng ALP, giảm CHE, có thể kèm theo vàng da (bilirubin máu tăng).

GLDH tăng mạnh: điều này chứng tỏ các tế bào nhu mô gan đang bị hủy hoại mạnh.

Nghiệm pháp galactose niệu: dương tính.

Bilirubin có thể giảm trong một số trường hợp viêm gan hay xơ gan.

Cần tiến hành kiểm tra và theo dõi các chỉ số ALP, GLDH, LDH, GGT mỗi 6 tháng 1 lần để tiên lượng về mức độ tiến triển của bệnh. Nếu bệnh tiến triển xấu thì 3 - 4 tháng cần kiểm tra 1 lần.

8.3 Xơ gan mật

Xơ gan mật có 2 loại: xơ gan mật nguyên phát và xơ gan mật thứ phát.

8.3.1 Xơ gan mật nguyên phát

Các triệu chứng lâm sàng của ứ mật điển hình trong khoảng thời gian dài (có thể kéo dài vài năm) kết hợp với tăng kháng thể IgM. Người ta dựa vào kháng thể (của IgM) để phân biệt xơ gan mật nguyên phát và xơ gan thứ phát.

Ở giai đoạn sớm của ứ mật, xét nghiệm thấy bilirubin bình thường nhưng trong quá trình diễn biến của bệnh, có tới hơn 60% trường hợp bệnh nhân có tăng chỉ số này. Chính vì vậy xét nghiệm này cho phép chẩn đoán chắc chắn về bệnh xơ gan mật nguyên phát.

Tăng chỉ số Bilirubin trực tiếp: Tăng trên 85,5 µmol/l (5mg/dl) chiếm tới 80% bệnh nhân và 20% bệnh nhân còn lại chỉ số này vượt 171 µmol/l (>10 mg/dl).

Bilirubin gián tiếp chỉ tăng nhẹ hoặc vẫn nằm trong ngưỡng bình thường.

ALP huyết tương: Ở 50% bệnh nhân có tăng rõ rệt, tăng hon 5 lần so với mức bình thường.

Chỉ số ALP, GGT tăng rất mạnh chứng tỏ có sự ứ mật trong gan.

GLDH, GOT, GPT tăng cao.

5’-nucleotidase, GGT tăng song song với ALP. (5’-nucleotidase bình thường: 2-15 U/l); ngoài ra còn tăng trong tắc đường dẫn mật trong và ngoài gan, tăng trong viêm gan, chủ yếu là tăng trong trường hợp có ứ mật trong gan.

CHE giảm ở giai đoạn muộn của bệnh.

Cholesterol tăng rõ rệt.

8.3.2 Xơ gan mật thứ phát

Khi bệnh nhân bị xơ gan mật thứ phát kết hợp viêm đường mật và ứ mật, đọc kết quả xét nghiệm sẽ cho kết quả sau:

GOT, GPT, GLDH tăng cao so với bình thường.

ALP, GGT tăng cao.

Chỉ số CHE bình thường hoặc có sự giảm ít.

Hội chứng tắc mật.

Tăng Bilirubin trực tiếp và bilirubin toàn phần, trong đó bilirubin trực tiếp tăng cao.

Tăng Phosphatase kiềm và cholesterol toàn phần.

Bilirubin niệu (+), giảm urobilinogen và stercobilinogen.

Tài liệu tham khảo

  1. ^ Tác giả: Timothy J, Schaefer, Savio John (Ngày đăng: ngày 11 tháng 8 năm 2021). Acute Hepatitis, NCBI. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
  2. ^ Tác giả: Nilesh Mehta, MD (Ngày đăng: ngày 3 tháng 5 năm 2019). Drug-Induced Hepatotoxicity, MedsCape. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
  3. ^ Tác giả: By Mayo Clinic Staff (Ngày đăng: ngày 5 tháng 3 năm 2020). Elevated liver enzymes, Mayo Clinic. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.

* SĐT của bạn luôn được bảo mật
* Nhập nếu bạn muốn nhận thông báo phẩn hồi email
Gửi câu hỏi
Hủy
    (Quy định duyệt bình luận)
    0/ 5 0
    5
    0%
    4
    0%
    3
    0%
    2
    0%
    1
    0%
    Chia sẻ nhận xét
    Đánh giá và nhận xét
      vui lòng chờ tin đang tải lên

      Vui lòng đợi xử lý......

      hotline
      0868 552 633
      0 SẢN PHẨM
      ĐANG MUA
      hotline
      1900 888 633