Riềng Rừng (Alpinia conchigera Griff.)
0 sản phẩm
Dược sĩ Thùy Dung Dược sĩ lâm sàng
Ước tính: 1 phút đọc, Ngày đăng:
Nếu phát hiện nội dung không chính xác, vui lòng phản hồi thông tin cho chúng tôi tại đây
Phân loại khoa học | |
---|---|
Giới(regnum) | Plantae (Thực vật) Angiospermae (Thực vật có hoa) Monocots (Thực vật một lá mầm) Commelinids (nhánh Thài lài) |
Bộ(ordo) | Zingiberales (Gừng) |
Họ(familia) | Zingiberaceae (Gừng) |
Chi(genus) | Alpinia |
Danh pháp hai phần (Tên khoa học) | |
Alpinia conchigera Griff. |
Riềng rừng thuộc dạng cây thảo, chiều cao mỗi cây khoảng 80cm. Phiến lá có dạng hình dải hay hình ngọn giáo, hai đầu của lá nhọn, mũi nhọn, ở gân chính có phủ lông. Bài viết dưới đây, Trung Tâm Thuốc Central Pharmacy (trungtamthuoc.com) sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin chi tiết.
1 Giới thiệu
Tên khoa học: Alpinia conchigera Griff.
Họ thực vật: Zingiberaceae (Gừng).
1.1 Đặc điểm thực vật
Riềng rừng thuộc dạng cây thảo, chiều cao mỗi cây khoảng 80cm.
Phiến lá có dạng hình dải hay hình ngọn giáo, hai đầu của lá nhọn, mũi nhọn, ở gân chính có phủ lông, chiều dài mỗi lá khoảng 17cm, chiều rộng khoảng 3cm, bẹ có khía. Cuống lá có cánh nhưng ngắn.
Hoa mọc thành chùy ở ngọn, chiều dài khoảng 11cm, lá bắc có dạng hình ống cao khoảng 5 đến 7mm, mỗi cụm hoa có khoảng 15 đến 25 bông nhỏ.
Hoa dài khoảng 1cm, có màu trắng hay màu da cam.
Quả mọng, có dạng hình cầu, đường kính mỗi quả khoảng 8mm, có màu nâu đỏ khi khô.
Mỗi quả gồm 3-5 hạt, hạt có màu vàng nâu, khi ăn có vị cay giống vị của hồ tiêu.
Dưới đây là hình ảnh của cây Riềng rừng:
1.2 Thu hái và chế biến
Bộ phận dùng: Thân dạng rễ, ngoài ra cũng dùng quả.
1.3 Đặc điểm phân bố
Riềng rừng được tìm thấy ở Ấn Độ, Lào, Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam. Ngoài ra, cây còn được tìm thấy ở Đồng Nai, An Giang, thành phố Hồ Chí Minh. Riềng rừng thường mọc rải rác ở những tán rừng ẩm, ven suối, độ cao phân bố khoảng từ 600 đến 1100 mét.
Cây ra hoa vào tháng 5 đến tháng 7, có quả vào tháng 9 đến tháng 12.
Xem thêm: Cây Riềng (Cao Lương Khương - Alpinia officinarum) kích thích tiêu hóa, ăn ngon cơm
2 Thành phần hóa học
Các nghiên cứu phân lập để xác định các hợp chất hoạt tính sinh học của thân rễ cây Riềng rừng đã tạo ra bảy hợp chất; 1′ S -1′-acetoxychavicol acetate (1), trans - p -coumaryl diacetate (2), p -hydroxycinnamyl acetate (3), 1′ S -1′-hydroxychavicol acetate (4) p -hydroxybenzaldehyde (5), stigmasterol (6) và β -sitosterol (7). Các hợp chất 1 , 2 và 5 đã được đánh giá về hoạt tính kháng khuẩn đối với Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA). Trong số các hợp chất được thử nghiệm, hợp chất 1 cho thấy hoạt tính kháng khuẩn tốt đối với chủng MRSA với giá trị nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) là 0,5 mg/mL. Trong khi đó, Hợp chất 2 và 5 cho thấy hoạt tính vừa phải với giá trị MIC trong khoảng từ 1,0 đến 2,0 mg/mL. Những phát hiện này chỉ ra tiềm năng kháng khuẩn của 1′ S -1′-acetoxychavicol acetate (1), tuy nhiên vẫn cần có nhiều nghiên cứu hơn để chứng minh.
3 Tác dụng của cây Riềng rừng
3.1 Tác dụng dược lý
Một nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tác dụng giảm đau và chống viêm của chiết xuất Ethanol từ thân rễ cây Riềng rừng ở chuột cống. Hoạt động giảm đau được làm sáng tỏ bằng cách sử dụng thử nghiệm gây đau đớn gây ra bởi axit axetic, thử nghiệm trên đĩa nóng và thử nghiệm formalin, trong khi hoạt động chống viêm được xác định bằng cách sử dụng phù nề bàn chân do carrageenan gây ra. Chiết xuất (30, 100 và 300 mg/kg) được tiêm phúc mạc (ip) cho thấy các hoạt động giảm đau và chống viêm trong tất cả các thử nghiệm được sử dụng. Phạm vi phần trăm giảm đau thu được cho tất cả các liều chiết xuất trong thử nghiệm quằn quại là 50-92%, và trong giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của thử nghiệm formalin lần lượt là 25-62% và 63-98%. Ngoài ra, Naloxone (5 mg/kg) tiêm dưới da (sc) được phát hiện có tác dụng đảo ngược hoạt động giảm đau do chiết xuất (300 mg/kg) gây ra trong các thử nghiệm quằn quại, đĩa nóng và formalin. Dựa trên các kết quả thu được, có thể kết luận rằng chiết xuất ethanol của thân rễ của cây Riềng rừng có hoạt động giảm đau ngoại vi và trung ương được trung gian một phần thông qua thụ thể opioid, cũng như hoạt động chống viêm.
3.2 Công dụng theo Y học cổ truyền
3.2.1 Tính vị, tác dụng
Riềng rừng có vị cay, tính nóng, có mùi thơm đặc trưng, cây có tác dụng kiện vị, tiêu thực.
3.2.2 Công dụng
Thân rễ của cây Riềng rừng được sử dụng tương tự như các loại Riềng khác, thường dùng để làm gia vị hoặc làm men rượu.
Nhân dân Campuchia sử dụng Riềng rừng để làm thuốc trị ho, Thuốc kích dục, điều chỉnh sự xuất huyết tử cung và làm ra mồ hôi. Bên cạnh đó, Riềng rừng còn được dùng phối hợp với các vị thuốc khác để uống trong trường hợp ho mạn tính, suy giảm chức năng gan dẫn tới vàng da, chóng mặt, đau đầu và viêm tử cung. Riềng rừng khi dùng ngoài làm thuốc đắp để chữa bệnh lý về gan, thấp khớp, đau dây thần kinh.
Nhân dân Malaysia sử dụng lá của cây Riềng rừng (có thể dùng riêng hoặc phối hợp với thân rễ) để làm thuốc chuyển máu. Sau khi hơ nóng thì đắp lá vào chỗ đau trị thấp khớp, nước hãm của lá dùng để tắm rửa. Lá có thể đem giã để đắp sau khi sinh đẻ, xoa vào cơ thể để phòng chống đau xương.
Nhân dân Trung Quốc sử dụng rễ và thân cây để chữa bụng trướng gây đau, tiêu hóa bị rối loạn, đau bụng.
4 Tài liệu tham khảo
Tác giả Võ Văn Chi. Từ điển cây thuốc Việt Nam tập 2. Riềng rừng, trang 581. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2024.
Tác giả Mohamad Nurul Azmi Mohamad Taib và cộng sự (Ngày đăng tháng 3 năm 2020). Chemicals Constituents Isolated from Cultivate Alpinia conchigera Griff. and Antimicrobial Activity, NCBI. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2024.
Tác giả M R Sulaiman và cộng sự (Ngày đăng tháng 8 năm 2010). Antinociceptive and anti-inflammatory effects of the ethanol extract of Alpinia conchigera rhizomes in various animal models, PubMed. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2025.