Cà Hôi (La Rừng, Ngoi - Solanum verbascifolium L.)
0 sản phẩm
Dược sĩ Thùy Dung Dược sĩ lâm sàng
Ước tính: 1 phút đọc, Ngày đăng:
Cập nhật:
Nếu phát hiện nội dung không chính xác, vui lòng phản hồi thông tin cho chúng tôi tại đây
Phân loại khoa học | |
---|---|
Giới(regnum) | Plantae (Thực vật) Angiospermae (Thực vật có hoa) Eudicots (Thực vật hai lá mầm thật sự) Asterids (nhánh hoa Cúc) |
Bộ(ordo) | Solanales (Cà) |
Họ(familia) | Solanaceae (Cà) |
Chi(genus) | Solanum |
Danh pháp hai phần (Tên khoa học) | |
Solanum verbascifolium L. |
Cà hôi thuộc dạng cây nhỏ, chiều cao mỗi cây khoảng từ 1,5 đến 5 mét. Thân và cành đều có lông hình sao, lông có màu vàng nhạt. Những cành non thường mọc tỏa rộng. Lá cây mọc so le. Bài viết dưới đây, Trung Tâm Thuốc Central Pharmacy (trungtamthuoc.com) sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin chi tiết.
1 Giới thiệu
Tên khoa học: Solanum verbascifolium L.
Tên gọi khác: La rừng, Cà ngoi, Phô hức.
Họ thực vật: Solanaceae (Cà).
1.1 Đặc điểm thực vật
Cà hôi thuộc dạng cây nhỏ, chiều cao mỗi cây khoảng từ 1,5 đến 5 mét. Thân và cành đều có lông hình sao, lông có màu vàng nhạt. Những cành non thường mọc tỏa rộng.
Lá cây mọc so le, phiến lá có dạng hình trái Xoan hoặc hình trứng, chiều dài khoảng 12 đến 20cm, chiều rộng từ 6 đến 11cm, gốc lá hình nêm, đầu lá thuôn nhọn, mép lá nguyên, hai mặt của lá đều phủ một lớp lông mịn, chiều dài cuống lá khoảng 3 đến 5cm.
Cụm hoa mọc thành xim phân nhánh ở kẽ lá hoặc cành bên, cụm hoa có lông mịn như len, hoa nhiều, màu trắng, đài hình phễu, xẻ 5 thùy, tràng có chiều dài gấp 2 lần đài, cánh hoa phủ một lớp lông tơ ở mặt ngoài, nhị 5, bầu có lông.
Quả của cây Cà hôi có kích thước nhỏ nhưng mọng, quả có dạng hình cầu, khi chín thì chuyển sang màu vàng, nhiều hạt.
Mùa hoa quả từ tháng 3 đến tháng 11.
Dưới đây là hình ảnh cây Cà hôi:
1.2 Thu hái và chế biến
Bộ phận dùng: Rễ, lá.
Thời điểm thu hái: Rễ sau khi đào lên thì đem thái mỏng, phơi hoặc sấy khô. Lá thì dùng tươi.
1.3 Đặc điểm phân bố
Tại nước ta, Cà hôi phân bố rải rác ở nhiều tỉnh thành bao gồm cả miền núi và trung du, đôi khi còn tìm thấy ở vùng đồng bằng. Cà hôi có bản chất là loài ưa ẩm, ưa sáng, lúc còn nhỏ hơi chịu bóng, cây thường mọc ở ven rừng, ven đồi, nương rẫy với độ cao phân bố có khi lên đến gần 1000 mét (những cây mọc ở Tam Đảo) gay gần 1300 mét (những cây mọc ở Hòa Bình), tại phía Nam, độ cao phân bố có thể đến 1500 mét.
Cà hôi ra hoa quả nhiều hàng năm, quả khi chín có màu vàng cam, đây là nguồn thức ăn cho nhiều loại chim chóc và động vật gặm nhấm. Hạt theo phân của động vật phân tán đi khắp nơi, vào tháng 4 đến tháng 5 hàng năm thì xuất hiện nhiều cây con mọc từ hạt. Cà hôi có thể được trồng dễ dàng từ hạt.
2 Thành phần hóa học
Rễ và lá của cây Cà hôi có chứa solasonin, solasodin, solamargin, solaverin, solaverbascin, solaverol A và B.
Một dẫn xuất cinnamide mới cùng với N (p-hydroxyphenylethyl) p-coumaramide và axit vanillic đã được phân lập từ thân cây Solanum verbascifolium L., cấu trúc của hợp chất mới được làm sáng tỏ là N-2-hydroxy-2 (p-hydroxyphenylethyl) p-coumaramide (1) dựa trên bằng chứng vật lý, hóa học và phân tích quang phổ.
3 Tác dụng của cây Cà hôi
3.1 Tác dụng dược lý
3.1.1 Tác dụng trên cơ trơn và cơ vân
Chiết xuất nước từ lá và toàn cây Cà hôi khi dùng ở nồng độ tương đương với 0,013g dược liệu/ml thì thấy tác dụng co bóp đối với hồng trường của chuột lang sau khi đã bị cô lập, cường độ co bóp bằng khoảng 65% so với acetylcholin.
Dạng chiết nước của cây Cà hôi còn cho thấy tác dụng tăng trương lực cơ ở hành tá tràng cô lập của thỏ thí nghiệm.
Dạng nước sắc không có tác dụng rõ rệt với hồi trường cô lập của chuột lang nhưng lại gây tác dụng kích thích nhẹ với tử cung cô lập của chuột cống trắng và cơ thẳng bụng ếch.
3.1.2 Tác dụng trên tim mạch
Dạng chiết nước từ lá của cây Cà hôi khi nghiên cứu đã cho thấy tác dụng ức chế co bóp cơ tim ở thỏ cô lập, nước sắc từ lá cây không có tác dụng rõ rệt nhưng lại cho thấy tác dụng hạ huyết áp trên chó gây mê sau khi tiêm tĩnh mạch.
3.1.3 Tác dụng đối với hệ thần kinh trung ương
Khi tiến hành thí nghiệm trên chuột nhắt trắng, người ta nhận thấy rằng, nước sắc từ lá cho thấy tác dụng kéo dài thời gian gây ngủ.
3.1.4 Độc tính
Dạng chiết nước khi nghiên cứu trên chuột nhắt trắng bằng cách tiêm xoang bụng với liều 10g/kg cho thấy tác dụng tăng hô hấp.
3.2 Công dụng theo Y học cổ truyền
3.2.1 Tính vị, tác dụng
Cà hôi có vị cay, tính bình, có tác dụng tiêu thũng, thu liễm, chỉ thống, sát trùng.
3.2.2 Công dụng
Nhân dân sử dụng Cà hôi trong các trường hợp lòi dom, hắc lào, tràng nhạc.
Nhân dân Đài Loan sử dụng Cà hôi trong trường viêm ruột, chữa lỵ, sốt.
Nhân dân Malaysia sử dụng lá cây Cà hôi đắp lên trán khi bị đau đầu, phụ nữ sau sinh dùng để tắm, nước sắc uống khi bị chóng mặt. Nước sắc từ rễ của cây Cà hôi được dùng làm thuốc giảm đau, chữa rối loạn tiêu hóa rất hiệu quả.
Nhân dân Indonesia dùng nước sắc rễ cây Cà hôi với Gừng và Hành trong trường hợp tiểu tiện ra máu. Lá cây dùng để chữa khí hư, bột lá dùng để chữa loét mũi cho ngựa. Nhân dân Philippin sử dụng lá Cà hôi hơ nóng đắp để chữa đau đầu, nước sắc chữa lỵ và tiêu chảy.
4 Cây Cà hôi chữa bệnh gì?
4.1 Chữa tràng nhạc
10g lá hoặc quả của cây Cà hôi.
10g lá Dâm Bụt.
20g vỏ rễ hoặc vỏ thân cây Gạo đã cạo bỏ vỏ ngoài.
Các vị đem giã nát, thêm nước vo gạo sấp mặt dược liệu, đun sôi nhỏ lửa đến khi nước cạn tạo thành Dung dịch sền sệt, để nguội và đắp vào chỗ bị tràng nhạc. Băng vết thương lại, mỗi ngày thay băng một lần. Cách làm này áp dụng cho trường hợp tràng nhạc chưa mưng mủ hoặc đã có mủ.
4.2 Chữa lòi dom
Dùng lá Cà hôi đem rửa sạch, bỏ cuống, đập giập, đem sao, đắp vào chỗ lòi dom sau khi rửa sạch bằng nước ấm. Sau khi đắp thì băng lại, cho bệnh nhân nằm nghỉ. Mỗi ngày đắp 1-2 lần, nên đắp buổi tối trước khi đi ngủ để tránh vết băng xô đi xô lại. Bệnh nhân bị lòi dom chữa bằng lá Cà hôi khỏi nhanh, 2-3 năm tới có khi không thấy tái phát.
5 Tài liệu tham khảo
Tác giả Đỗ Huy Bích và cộng sự. Cây Thuốc Và Động Vật Làm Thuốc ở Việt Nam tập 2. Ngoi, trang 399-401. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2024.
Tác giả Li-Xin Zhou và cộng sự (Ngày đăng 2002). A cinnamide derivative from Solanum verbascifolium L, PubMed. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2024.