Ba Kích (Morinda officinalis Stow)
127 sản phẩm
Dược sĩ Thùy Dung Dược sĩ lâm sàng
Ước tính: 5 phút đọc, Ngày đăng:
Cập nhật:
Phân loại khoa học | |
---|---|
Giới(regnum) | Plantae (Thực vật) Angiospermae (Thực vật có hoa) Eudicots (Thực vật hai lá mầm thực sự) Asterids (nhánh hoa Cúc) |
Bộ(ordo) | Gentianales (Long đởm) |
Họ(familia) | Rubiaceae (Cà phê) |
Chi(genus) | Morinda |
Danh pháp hai phần (Tên khoa học) | |
Morinda officinalis Stow. |
Từ xưa tới nay, dân gian ta luôn lưu truyền những vị thuốc và những bài thuốc quý nhằm bồi bổ cơ thể và chăm sóc sức khỏe. Ba kích là một trong những vị thuốc bổ dương cực kỳ hiệu quả, là bí quyết của ông cha từ bao đời nay.
1 Giới thiệu về Ba kích
Ba kích có tên khoa học là Morinda officinalis Stow., là loài thuộc họ cà phê (Rubiaceae).
Trong cuốn sách Thần nông bản thảo kinh có viết: Ba kích thiên là gốc của ba kích thiên loại thực vật dây leo thuộc họ thiến thảo (Rubiaceae), – sống lâu năm, còn gọi là kẻ trường phong. Thông - thường được trồng nhiều ở tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến... Đến nay ba kích thiên tự nhiên còn rất ít vì nhu cầu thu hái nhiều.
Ở Việt nam, Ba kích còn được gọi dưới nhiều tên khác nhau, chẳng hạn như cây ruột gà, ba kích thiên…
Ba Kích là một loại cây bụi được trồng ở các khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới trong hơn 200 năm, và là một trong những loại thảo mộc được biết đến nhiều nhất ở châu Á, đặc biệt là ở miền nam Trung Quốc. Rễ loài này từ lâu đã được sử dụng như một loại thuốc bổ hoặc chất bổ sung chất dinh dưỡng để giảm bớt nhiều loại bệnh, bao gồm bất lực, loãng xương, viêm khớp dạng thấp, viêm da, trầm cảm và bệnh Alzheimer.
2 Đặc điểm thực vật
Ba kích là cây thân thảo, sống lâu năm, có thể trở thành cây leo nhờ thân quấn. Thân màu tím, nhiều lông tơ bao phủ khi còn non. Thân trưởng thành màu xanh lục đến nâu, gần như không có lông. Thân phân nhánh nhiều, cành non có cạnh. Hệ thống rễ dạng sợi với rễ hình trụ không đều, mọng nước và phình to thành củ, ăn sâu xuống dưới đất. Lá mọc đối, có hình mũi mác hoặc hình bầu dục, phiến lá nguyên, thuôn nhọn, cứng, dài 6-14cm, rộng 2,5-6cm. Lá non có màu xanh lục, khi về già màu trắng mốc. Lá có một gân chính từ gốc lá đến ngọn lá, cấu trúc gân phụ hình lông chim. Mép lá nhẵn, không có răng cưa. Lá bẹ mỏng, ôm sát vào thân.
Hoa có kích thước nhỏ, lúc non màu trắng, sau ngả vàng, tập trung thành cụm hình tán ở đầu cành, dài 0,3-1,5cm. Đài hoa có hình chén hay hình ống với các lá đài nhỏ kích thước khác nhau. Tràng hoa hình ống ngắn, dính liền ở dưới đài hoa. Quả Ba kích hình cầu, ban đầu xanh, khi chín màu đỏ, mang đài còn lại ở đỉnh. Hoa thường nở vào mùa hè (tháng 5-6), mùa quả chín vào thu (tháng 7-10).
2.1 Thu hái, chế biến
Theo Dược điển Việt Nam 5, vị thuốc Ba kích có tên khoa học là Radix Morindae officinalis là rễ đã phơi hay sấy khô của cây Ba kích.
Mô tả vị thuốc: Rễ hình trụ tròn hoặc hơi dẹt, cong queo, dài trên 3cm, đường kính lớn hơn 0,3cm. Mặt ngoài màu nâu xám hay nâu nhạt, có nhiều vân dọc và ngang. Có những chỗ nứt ngang sâu tới lõi gỗ. Mặt cắt có phần thịt dày màu tím cám hay hồng nhạt, giữa là lõi gỗ nhỏ có màu vàng nâu, vị ngọt và hơi chát.
Chế biến: Đào rễ Ba kích quanh năm, sơ chế sạch, bỏ rễ con sau đó phơi khô đến khi không dính tay, đập nhẹ cho bepk, phơi hay sấy nhẹ đến khô.
Bào chế:
- Ba kích nhục: Đem Ba kích đã sơ chế đồ kỹ hay luộc qua, khi còn nóng rút bỏ lõi gỗ, cắt đoạn, phơi khô.
- Diêm Ba kích nhục: Dùng nước muối theo tỷ lệ 100kg Ba kích dùng 2kg muối và lượng nước vừa đủ hòa tan, lọc trong. Trộn Ba kích với nước muối cho đều rồi đồ kỹ và rút lõi gỗ, cắt đoạn phơi khô.
- Chích Ba kích: Dùng Cam thảo, 100kg Ba kích cần 6kg Cam thảo, sắc Cam Thảo già đã giã dập lấy nước, bỏ bã, cho Ba kích đã sơ chế vào, đun đến khi mềm xốp có thể rút lõi gỗ, rút khi còn nóng, cắt đoạn, phơi khô.
3 Phân bố
Cây thuốc Ba Kích mọc hoang, phân bố nhiều ở vùng đồi núi thấp của miền núi và trung du ở các tỉnh phía Bắc.Ba Kích có nhiều ở Quảng Ninh, Vĩnh Phú, Hà Bắc, Lạng Sơn, Hà Giang, Hà Tây.
4 Thành phần hóa học
Ba kích chứa các thành phần hóa học khác nhau, chủ yếu thuộc về iridoid glycoside, anthraquinon, saccharide, axit hữu cơ, dầu dễ bay hơi và các thành phần khác. Ngoài ra, một số polysaccharid đồng nhất cũng đã thu được từ rễ Ba kích.
4.1 Iridoid glycoside
Iridoid glycoside là một trong những hoạt chất chính của rễ Ba kích. Bảy iridoid glycoside, cụ thể là monotropein, asperuloside tetraacetat, asperuloside, axit asperulosidic, axit deacetyl asperulosidic, morofficinaloside và morindolide, đã được phân lập từ các chiết xuất Ethanol của rễ Ba kích. Monotropein có hàm lượng cao nhất, và hàm lượng của nó gần đạt tới 2,0%. Các iridoid glycoside, đặc biệt là monotropein thể hiện hoạt tính chống viêm đáng kể trong mô hình các đại thực bào được kích thích bằng lipopolysaccharide.
4.2 Anthraquinon
Nhiều loại anthraquinon đã được thu nhận từ rễ Ba kích. Tất cả các dẫn xuất anthraquinon đều có một hoặc nhiều nhóm thế hydroxyl hoặc metoxy trên hạt nhân mẹ và chỉ có một chuỗi bên chứa cacbon trên hạt nhân mẹ. Tổng cộng 28 hợp chất anthraquinon đã được phân lập. Các hoạt động chống loãng xương của anthraquinon được xác định, dựa trên tác dụng ức chế tiêu xương tế bào xương.
4.3 Polysaccharide, mono- và oligosaccharid
Saccharide là một thành phần quan trọng khác trong rễ Ba kích. Một loạt các oligosaccharide đã được phân lập, bao gồm bajijiasu, mannose, nystose, 1F-fructofuranosyl nystose, inulin-type hexasaccharide và heptasaccharide, sucrose, inulin-type trisaecharide, inulotriose, inulotetraose, inulopentaose. Các oligosaccharide từ Ba kích đã được phát triển thành một loại thuốc mới để điều trị rối loạn trầm cảm nhẹ hoặc trung bình. [1]
4.4 Axit hữu cơ
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong rễ Ba kích có chứa một số axit hữu cơ có tác dụng kháng u, kháng khuẩn, chống huyết khối, chống HIV và các hoạt động sinh học khác. Các nhà khoa học đã phân lập axit fumaric, axit succinic từ rễ Ba kích và báo cáo rằng nó có hoạt tính chống trầm cảm đáng kể. Axit 3β, 19α-dihydroxyl-12-en-28-oic cũng được phân lập.
4.5 Tinh dầu
Các thành phần dễ bay hơi được chiết xuất bằng chưng cất hơi nước, bao gồm 77,4% dầu đã được xác định, các hợp chất này bao gồm borneo, alpha-zingiberene, ar-curcumene, l-hexanol, beta- sesquiphelandrene, 2-amyfuran, n-nonanal, L-camphor và beta-bisabolen. Cấu trúc của một số hợp chất chính trong tinh dầu Ba kích được thể hiện trong hình dưới.
4.6 Các thành phần khác
Ngoài ra, một số loại hợp chất khác cũng đã được phân lập từ rễ Ba kích, bao gồm 7-hydroxy-6-methoxy-coumarin, stigmasterol, daucosterol, β-sitosterol, scopoletin, 3β-(R)-butyl-5-alkenyl-cholesterol, 3-β-5-alkenyl-spirostol và 18 axit amin.
5 Tác dụng sinh học và độc tính
Theo Y học hiện đại nghiên cứu và chứng minh, các thành phần hữu hiệu chứa trong ba kích còn có tác dụng hạ huyết áp, lợi tiểu.
5.1 Tác dụng chống trầm cảm
Người ta thấy rằng việc sử dụng các chất chiết xuất Ba kích (100-400 mg/kg) làm giảm đáng kể thời gian bất động, nhưng không gây ra bất kỳ tác dụng nào đối với hoạt động vận động tự phát, chứng tỏ rằng nó có hoạt tính chống trầm cảm. Các phân đoạn choloroform và etylacetat đối kháng với hành vi leo trèo và rập khuôn do apomorphin gây ra ở chuột, trong khi không tăng cường khả năng gây chết người do yohimbin gây ra ở chuột, chứng minh rằng chiết xuất Ba kích phát huy tác dụng chống trầm cảm chủ yếu thông qua việc kích hoạt hệ thống này. Các oligosaccharide trong Ba kích đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Nhà nước của Trung Quốc phê duyệt để ngăn ngừa và điều trị các rối loạn trầm cảm nhẹ hoặc trung bình.
5.2 Hoạt động chống viêm
Chiết xuất methanol từ rễ Ba kích có các hoạt động chống viêm thông qua việc ức chế biểu hiện iNOS, cyclooxygenase (COX-2) và yếu tố gây hoại tử khối u TNF-α bằng cách điều chỉnh giảm hoạt động liên kết của con đường NF-κB. Monotropein đã được chứng minh là có khả năng ức chế sự biểu hiện mRNA của iNOS, COX-2, TNF-α và IL-1β trong các đại thực bào RAW 264.7 do nội độc tố vi khuẩn gây ra, làm giảm hoạt động liên kết DNA của NF-κB, ngăn chặn quá trình phosphoryl hóa và thoái hóa IκB-α, và do đó là sự chuyển vị của NF-κB. Trong mô hình viêm đại tràng ở chuột, monotropein làm giảm chỉ số hoạt động bệnh, hoạt động myeloperoxidase và biểu hiện protein liên quan đến viêm bằng cách ức chế hoạt hóa NF-κB trong niêm mạc ruột kết.
Chiết xuất ethanol của Ba kích có thể làm giảm sưng chân và nồng độ TNF-α, interleukin-lβ (IL-lβ), IL-6 ở chuột bị viêm khớp; đồng thời ức chế sưng mắt cá chân, giảm prostaglandin E2 gây ra bởi tá dược hoàn chỉnh của Freund, và giảm tần suất viêm đau của chuột do axit axetic băng gây ra. Từ đó cho thấy tác dụng chống viêm trong viêm khớp dạng thấp của Ba kích. [2]
5.3 Tác dụng tăng cường sinh lý
Chiết xuất Ba kích cho thấy tác dụng bao vệ tế bào sản xuất testosteron ở tinh hoàn thông qua mức độ peroxy hóa lipid giảm, tăng sản xuất testosterone, và cải thiện các hoạt động của superoxide dismutase và catalase. Điều trị bằng chiết xuất Ba kích có thể cải thiện cấu trúc ống bán lá kim của tinh hoàn và thúc đẩy quá trình tiết Testosterone của tế bào sản xuất testosteron trong rối loạn sinh tinh do Cyclophosphamide gây ra. Những nghiên cứu này đã chứng minh rằng Ba kích có thể giảm thiểu sự suy giảm của Cyclophosphamide đối với quá trình sinh tinh.
Các oligosaccharide có trong Ba kích có khả năng làm tăng số lượng và chất lượng của tinh trùng ở chuột đực bị suy giảm tinh trùng do cytoxan gây ra. Tác dụng làm giảm kháng thể chống tinh trùng và điều chỉnh mức testosterone trong mô và huyết thanh tinh hoàn cho thấy rằng polysaccharide có thể thúc đẩy quá trình sinh tinh và chống lại thiệt hại do giãn tĩnh mạch thừng tinh. Một cuộc điều tra khác cũng cho thấy Bajijiasu được phân lập từ Ba kích là một loại thuốc tiềm năng giống androgen, ở một mức độ nào đó có thể điều chỉnh nồng độ hormone mà không gây tổn thương cơ quan sinh sản, tăng cường chức năng tình dục của chuột đực và bảo vệ DNA của tinh trùng người chống lại sự phá hủy của Hydrogen peroxide H2O2 trong chuột bình thường và thiếu thận dương do hydroxyurea gây ra.
Nhân dân sử dụng Ba kích như một loại thuốc bổ tăng lực, các tài liệu cổ cũng ghi chép rằng, Ba kích có tác dụng chữa gân cốt mềm yếu, xuất tinh sớm, liệt dương, dương ủy di tính, có thể dùng riêng hoặc phối hợp với các loại thuốc khác. Nam giới hiện nay thường dùng Ba kích để ngâm rượu uống, cách làm cũng tương đối đơn giản, nhưng cũng cần có một số lưu ý trong quá trình ngâm cũng như sử dụng để đảm bảo đạt hiệu quả cao mà vẫn an toàn.
Xem thêm: Cách ngâm rượu Ba kích tươi, khô an toàn và hiệu quả nhất
5.4 Hoạt động chống oxy hóa
Chiết xuất nước của Ba kích có tác dụng loại bỏ rõ ràng đối với gốc hydroxyl và gốc anion superoxide. Polysaccharide có tính axit đã được chứng minh là có khả năng tuyệt vời trong việc loại bỏ các gốc tự do, chelat hóa các ion Sắt và ức chế sự tan máu của hồng cầu chuột được xử lý bằng H2O2. Ngoài ra, các thành phần trong Ba kích có thể cải thiện khả năng thể chất, tăng hoạt động của các enzym, đồng thời giảm hàm lượng malonaldehyde trong cơ tim, mô gan và huyết thanh ở chuột bơi hết sức. Sử dụng 4,5 mg/kg chiết xuất nước Ba kích trong 8 tuần đã cải thiện thời gian kiệt sức khi tập luyện quá sức, tăng hoạt động của các enzym cũng như của cơ xương và cải thiện khả năng chống oxy hóa. Từ đó cho thấy tác dụng chống oxy hóa của Ba kích, đi cùng với tác dụng chống loãng xương và bảo vệ tim mạch.
5.5 Các tác dụng khác
Chiết xuất từ Ba kích còn có tác dụng chống bức xạ. Sử dụng chiết xuất Ba kích với liều lượng 40 g/kg trong 2 tuần cho chuột đực bị thương bằng vi sóng 900 MHz ở mật độ bức xạ 218 µm/cm2 trong 10 ngày đã cải thiện đáng kể hoạt động tình dục, tăng mức testosterone huyết thanh và giảm mức hormon tạo hoàng thể LH và hormone giải phóng gonadotropin GnRH, tăng số lượng tế bào bán lá kim hoặc tinh trùng trong tinh hoàn và mào tinh hoàn, và làm giảm đáng kể sự biểu hiện protein của GnRH ở vùng dưới đồi.
Ngoài ra, sử dụng Ba kích cũng giúp cải thiện trí nhớ và ngăn ngừa bệnh Alzheimer. Chiết xuất Ba kích có thể cải thiện khả năng học tập và suy giảm trí nhớ do D-galactose gây ra ở chuột. Điều trị với dịch chiết Ba kích làm mô hình cho chuột mắc bệnh Alzheimer do D-galactose và natrium nitrosum gây ra trong 30 ngày liên tục đã làm tăng đáng kể khả năng học tập và ghi nhớ của chuột trong một bài kiểm tra từng bước, tăng hoạt tính của superoxide dismutase và giảm hàm lượng của malonaldehyde, biểu hiện mRNA của monoamine oxidase-B.
Chiết xuất từ Ba kích cũng có tác dụng bồi bổ cơ thể và điều hòa miễn dịch. Ba kích thể hiện khả năng chống mệt mỏi mạnh mẽ. Các polysaccharide giúp kéo dài thời gian bơi của chuột, làm giảm nồng độ nitơ urê huyết thanh và axit lactic trong máu, và tăng mức glycogen ở gan. Sử dụng chiết xuất từ nước Ba kích cho chuột bị ức chế miễn dịch do cyclophosphamide gây ra trong 10 ngày làm tăng số lượng bạch cầu, thúc đẩy tỷ lệ thanh thải của màu đỏ cogon bởi các tế bào thực bào đơn nhân, và gây ra sự thực bào của các đại thực bào; từ đó giúp tăng cường miễn dịch cho cơ thể.
5.6 Độc tính
Theo các nghiên cứu lâm sàng hiện có, Ba kích dường như không gây độc. Không có tác dụng ngoại ý đáng kể nào được báo cáo ở liều bình thường. Các tác dụng phụ sau
xảy ra trong các trường hợp cá nhân sử dụng liều trên 1000 mg/kg một ngày: khó chịu, mất ngủ. Thử nghiệm độc tính cấp tính chỉ ra rằng ở liều tích lũy 250g/kg/ngày không dẫn đến chuột tử vong trong 3 ngày. Điều tra sâu hơn cũng cho thấy chất chiết xuất Ba kích không có tác dụng gây đột biến hoặc gây độc gen đối với Escherichia Coli. Tuy nhiên, những bệnh nhân bị đỏ bừng mặt, đổ mồ hôi ban đêm, khô miệng và cổ họng, chóng mặt và ù tai được khuyến cáo không nên sử dụng Ba kích.
6 Tác dụng và công dụng theo y học cổ truyền
Từ xưa đến nay, ba kích thiên được coi là vị thuốc bổ thận tráng dương. Đông y cho rằng, bộ phận sinh dục của nam và nữ là nơi hội tụ của 12 dây thần kinh và gân cốt. Can kinh chủ về gân cốt, mạch khí của can vòng quanh âm khí, nếu như tà khí tụ ở trong đó, thì dẫn đến bệnh liệt dương ở nam giới. Ba kích thiên tỉnh ôn, có thể làm ẩm gan, vị cay có tác dụng tấn tà, vì thế có tác dụng bổ thận tráng dương rất tốt. Ngoài ra, còn có tác dụng điều trị các chứng bệnh do gan, thận hư tổn như thận hư, liệt dương, di tỉnh, lưng gối đau mỏi, đi tiểu nhiều lần, tiểu dắt. Khi dùng ba kích thiên điều trị chứng liệt dương, thường kết hợp dùng với Nhân Sâm, Nhục Thung Dung, thỏ ty tử; điều trị tắc ống dẫn tiểu thường dùng kết hợp với Ích Trí Nhân, Tang Phiêu Tiêu.
Trong Ban thảo cương mục có ghi Ba kích thiên có tác dụng “bổ huyết hải", tức bổ gan, tốt cho mạch. Vì thế có tác dụng điều kinh, trị chứng đau lạnh bụng dưới, khó thụ thai. Để chữa các chứng bệnh này thường dùng kết hợp với nhục Quế, ngô thù du. Ngoài ra, ba kích thiên còn được người xưa sử dụng tương đối phổ biến trong việc trừ phong hàn. Ba kích thiên đi vào gan, vị cay có tác dụng tán tà, cho nên có thể trị các loại bệnh về phong tà. Người xưa cũng thường dùng nó để trị chứng phù nề chân do trúng phong độc, tán phong ở đầu và mặt. Y học lâm sàng hiện nay chủ yếu dùng ba kích thiên để trừ phong thấp, mạnh gân cốt, trị thận hư, loãng xương, phong tê thấp lâu ngày, thường dùng kết hợp với Đỗ Trọng, ty giải.
Ba kích có tuổi thọ 3 năm trở đi mới có thể thu hoạch, thường được thu hái vào cuối thu (tháng 10-11). Rễ Ba kích sau khi thu hái được phơi/sấy khô, cắt ngắn bằng ngón tay.
Ba kích có vị cay, ngọt, tính ôn, quy kinh can, thận; có tác dụng bổ thận dương, tráng gân cốt, tiêu viêm, giảm đau, trừ hàn thấp; chủ trị liệt dương, di tinh, kinh nguyệt không đều, dạ con lạnh khó có thai, đau bụng dưới, phong thấp…
Liều dùng: 3g - 9g dạng thuốc sắc, phối hợp cùng các vị thuốc khác.
Kiêng kỵ: Người táo bón, âm hư hỏa vượng không được dùng.
Các bài thuốc từ Ba kích:
Hoặc: Ba kích, đảng sâm, nhục thung dung, Cốt Toái Bổ, long cốt, 300g mỗi loại, Ngũ Vị Tử 150g.
Tán thành bột mịn, trộn đều, tạo viên hoàn cùng Mật Ong, uống 2-3 lần/ngày, mỗi lần uống 8-10g.
- Bồi bổ cơ thể: Ba kích, Ngưu Tất, Hà Thủ Ô, vừng đen (150g mỗi loại), lá dâu non 250g, Rau Má 500g. Tán thành bột mịn, tạo viên hoàn, ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 8g.
- Trị đau mỏi gân cốt, đau lưng: Ba kích, đỗ trọng, nhục thung dung, Thỏ Ty Tử, tỳ giải, 400g mỗi loại. Tán bột mịn, tạo viên hoàn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g.
7 Ba kích - Thuốc bổ thận tráng gương
Từ lâu các phương thuốc bổ thận tráng dương đã có ở Trung Quốc. Trong hàng nghìn các vị thuốc Đông y thì có hàng trăm loại thuốc có tác dụng bổ thận tráng dương. Đông y qua các thời đại cho rằng, ba kích thiên, đại táo, chỉ ma, hạt Sen, sơn dược, hạch đào có thể trị các chứng bệnh di tình, tiểu sòn do thận hư ở nam giới. Các loại thịt chó, thịt dê, lươn, hải sâm và bộ phận sinh dục ngoài của động vật cũng có tác dụng nâng cao khả năng tình dục, loại bỏ trở ngại đối với các chức năng trị liệu. Các tạng khi của động vật vừa có thể làm thuốc, vừa làm thức ăn như cật chó, dái chó, tủy sống, dái dê, cật lửa, cật hươu, dải hươu, nhưng hươu.... có tác dụng trị liệu rất tốt đối với các chứng bệnh liệt dương, xuất tinh sớm, di tinh, khả năng tình dục yếu. Ngoài ra, thuốc tráng dương thường dùng kết hợp với thuốc củng cố tình dịch, hoạt tinh như hạt súng, nhụy sen, Mẫu Lệ, hạt anh đào, ngũ vị tử, sơn thủ du, có tác dụng củng cố tình bỏ thận rất tốt.
Ngoài ra, khi lấy các loại thuốc bổ thận. tráng dương nấu cùng thực phẩm, không những có thể bổ sung dưỡng chất, mà còn có tác dụng chữa bệnh, nâng cao khả năng tình dục ở nam giới, giúp thân thể khỏe mạnh hơn.
8 Phân biệt Ba kích thật và giả
Ba kích là dược liệu nổi tiếng trong Y học cổ truyền cũng như Y học hiện đại với nhiều công dụng tốt cho sức khỏe như tăng cường sinh lý nam giới, bồi bổ sức khỏe, trị đau lưng mỏi gối, đối với bệnh nhân đau mỏi các khớp, sử dụng Ba kích dài ngày giúp làm giảm các triệu chứng một cách rõ rệt. Chính vì lý do này, hiện nay trên thị trường xuất hiện một số loại Ba kích 'giả', nhiều thương lái bất chấp sức khỏe của người tiêu dùng vì mục đích lợi nhuận. Về bản chất, Ba kích 'giả' thực chất là rễ của cây Viễn chí, còn được gọi là Kích nhũ trắng có tên khoa học là Polygala karensium Kurz. Người bán, thương lái cũng chia thành 2 loại là Ba kích trắng và Ba kích tím nhưng thực chất hai loại này đều là giả. Dưới đây là một số đặc điểm giúp bạn đọc phân biệt Ba kích thật và Ba kích giả, tránh tình trạng mua phải hàng giả, hàng nhái, vừa tốn kém vừa không đạt hiệu quả sử dụng.
| Viễn chí | Ba kích |
Tên khoa học | Polygala japinica Houtt. | Morinda officinalis How |
Đặc điểm thực vật | Cây thảo, sống lâu năm, phân cành từ gốc, hơi có lông mịn Rễ cứng có dạng hình trụ Lá mọc so le, lá ở gốc hình ellip, lá ở phía trên hifnhh mác Cụm hoa mọc thành chùm ở kẽ lá hoặc đàu cành, hoa màu trắng, đầu hoa nhuốm màu tím Quả nang, có cánh Viễn Chí phân bố ở những khu vực có độ cao trên 700 mét đến 3000 mét | Cây thảo, sống lâu năm, leo bằng thân quấn, chiều dài có thể lên đến hàng mét Rễ cây có dạng hình trụ, mập mạp, vặn vẹo Lá cây mọc đối, phiến lá hình mác hoặc hình bầu dục, cuống ngắn Hoa mọc thành tán ở đầu cành, hoa nhỏ, màu trắng sau hơi vàng Quả hình cầu, khi chín có màu đỏ Ba kích phân bố ở những khu vực có độ cao từ vài chục mét đến 500 mét |
Công dụng, tác dụng | Viễn chí dùng trong trường hợp ho, nhiều đờm, suy giảm trí nhớ, liệt dương, dùng làm thuốc bổ trong trường hợp suy nhược thần kinh, ngủ kém, tức ngực | Ba kích được dùng làm thuốc bổ, tăng lực, tăng khả năng giao hợp, tăng độ dẻo dau cho nam giới, dùng được trong những trường hợp nam giới vô sinh tương đối nhẹ, suy giảm thể lực Ba kích còn được dùng trong các trường hợp đau lưng mỏi gối, xuất tinh sớm, liệt dương, di mộng tinh, phong thấp, phụ nữ kinh nguyệt không đều |
9 Tài liệu tham khảo
- Tác giả Feng Feng, Ling-Li Wang (Ngày đăng tháng 8 năm 2012). Study on oligosaccharides from Morinda officinalis, PubMed. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2022
- Tác giả Jian-Hua Zhang, Hai-Liang Xin (Ngày đăng 7 tháng 11 năm 2017). Morinda officinalis How. - A comprehensive review of traditional uses, phytochemistry and pharmacology, PubMed. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2022.
- Dược Điển Việt Nam 5 tập 2 (Xuất bản năm 2017). Ba kích (rễ), trang 1064 - 1065, Dược điển Việt Nam 5 tập 2. Truy cập ngày 27 tháng 09 năm 2023.
- Sách Thần Nông Bản Thảo Kinh (Xuất bản năm 2021). Ba Kích, trang 84-85. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023.