Viêm khớp thiếu niên tự phát thể đa khớp RF (+) và RF (-)
Trungtamthuoc.com - Có hai loại viêm khớp thiếu niên tự phát thể đa khớp là trường hợp có yếu tố thấp khớp hay RF+ và không có yếu tố thấp khớp RF-. Đây là một dạng bệnh viêm khớp phổ biến ở trẻ nhỏ và trẻ bị thành niên, gặp ở bé gái nhiều hơn bé trai.
1 Viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm đa khớp là gì?
Viêm đa khớp là một dạng viêm khớp thiếu niên tự phát phổ biến thứ 2 ở người trẻ tuổi, viêm đa khớp ảnh hưởng đến 5 khớp trở lên trong 6 tháng đầu của bệnh. Có hai loại viêm đa khớp là viêm khớp dương tính với yếu tố thấp khớp (RF+) và viêm khớp không có yếu tố thấp khớp (RF-). Trường hợp viêm khớp này có nhiều khả năng kéo dài đến tuổi trưởng thành. Bệnh viêm đa khớp thường gặp ở bé gái nhiều hơn bé trai.[1]
2 Nguyên nhân gây viêm khớp thiếu niên thể đa khớp
Viêm khớp thiếu niên tự phát thể đa khớp hiện nay vẫn chưa được rõ. Bệnh có thể không phải do mộ nguyên nhân đơn lẻ gây ra mà có sự kết hợp của nhiều yếu tố cùng đến khớp khác.
Bệnh viêm khớp thiếu niên này có thể liên quan đến yếu tố di truyền nhất định. Ngoài ra, các tác nhân từ môi trường, rối loạn miễn miễn dịch cũng đóng vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của những người bệnh này.
3 Chẩn đoán viêm khớp thiếu niên thể đa khớp như thế nào?
Để chẩn đoán viêm khớp thiếu niên tự phát đa khớp với yếu tố RF+, ta dựa vào các biểu hiện của bệnh như sau:
Người bệnh viêm từ 5 khớp trở lên, trong vòng 6 tháng kể từ khi phát bệnh.
Xét nghiệm máu tìm yếu tố thấp khớp (RF) cho tối thiểu 2 mẫu dương tính cách nhau 3 tháng, trong 6 tháng khảo sát.
Bệnh viêm khớp này thường phát hiện trước 16 tuổi.
Người bệnh bị viêm khớp kéo dài tối thiểu 6 tuần.
Người bệnh xuất hiện yếu tố miễn dịch di truyền HLA-DR4 như trong viêm khớp dạng thấp ở người lớn.
Bệnh viêm đa khớp thiếu niên có yếu tố thấp khớp thường khởi phát muộn từ 9 đến 13 tuổi. Người bệnh bị viêm đa khớp, bao gồm cả những khớp nhỏ và khớp lớn và có yếu tố đối xứng. Bệnh thường tiến triển nặng và hủy xương sớm, chức năng vận động bị ảnh hưởng nhiều và có nguy cơ phải thay khớp về sau. Tổn thương ngoài khớp thường gặp như viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim, tràn dịch màng phổi, viêm mạch máu, viêm hệ thống mô liên kết, hội chứng Felty, hội chứng ống cổ tay... Ngoài ra, một số ít trường hợp người bệnh còn gặp tình trạng viêm màng bồ đào, tổn thương mắt, các hạt thấp dưới da.
Để chẩn đoán viêm khớp thiếu niên tự phát đa khớp âm tính với yếu tố RF, ta dựa vào các yếu tố sau:
Trong 6 tháng tính từ lúc phát bệnh, người bệnh bị viêm tối thiểu 5 khớp. Đồng thời, khi xét nghiệm máu cho kết quả âm tính với yếu tố RF.
Trường hợp viêm đa khớp thiếu niên này được chia làm 3 dạng bao gồm:
- Viêm đa khớp dương tính ANA: Bệnh thường khởi phát sớm trước 6 tuổi, thường gặp nhiều ở bé gái. Người bệnh có nguy cơ cao bị viêm màng bồ đào trước, viêm cả khớp lớn và nhỏ, không đối xứng nhau.
- Viêm khớp tăng sản bao hoạt dịch có đối xứng: Trường hợp này bệnh thường khởi phát muộn hơn, khoảng 7 đến 9 tuổi, các khớp bị viêm đối xứng nhau, hiếm khi có biến chứng viêm màng bồ đào.
- Viêm khớp bao hoạt dịch khô, bệnh cũng khởi phát muộn sau 7 tuổi, khó điều trị.
Có đến 50% trẻ viêm khớp tự phát đa khớp âm tính RF khởi phát trước 5 tuổi. Bệnh thường diễn ra âm thầm và tiến triển chậm nhưng cũng có thể phát bệnh cấp tính. Thông thường bệnh nhi này sẽ không bị sốt hay chỉ sốt nhẹ. Trẻ thường đi kèm với viêm gân cơ bao hoạt dịch khớp cổ tay, viêm gân gấp bàn tay, còn viêm khớp háng có thể gặp nhưng muộn hơn. Người bệnh viêm đa khớp này thường không có các tổn thương ngoài khớp.
4 Điều trị viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm đa khớp như thế nào?
4.1 Phương pháp điều trị cho viêm khớp thiếu niên tự phát thể đa khớp RF (+)
Ban đầu điều trị bằng NSAIDs dùng được ở trẻ em bao gồm:
- Aspirine liều cho mỗi ngày từ 75 đến 100mg/kg.
- Hoặc Ibuprofen mỗi ngày sử dụng từ 30 đến 50mg/kg.
- Hoặc Naproxen liều dùng mỗi ngày từ 15 đến 20mg/kg.
- Hoặc Tolmetin với liều hàng ngày cũng được tính theo cân nặng của trẻ là từ 30 đến 40mg/kg.
Nếu bệnh tiến triển nặng hơn, không có hiệu quả với NSAIDs, thì kết hợp hoặc thay thế bằng Corticosteroids như sau:
- Methylprednisolone dùng để truyền tĩnh mạch mỗi ngày từ 10 - 30mg/kg, dùng từ 1 đến 3 ngày.
- Hoặc uống liều cao Prednisone tương đương mỗi ngày từ 2 đến 3mg/kg.
- Các Corticoids thường được giảm liều nhanh trong vòng 1 - 2 tuần và duy trì bằng cách uống liều thấp Prednisone tương ứng 0,5 - 1mg/kg mỗi ngày. Có thể sử dụng Corticosteroids tiêm nội khớp để cải thiện chức năng khớp và điều trị đau tại chỗ.
Phối hợp sớm với Methotrexat (MTX) với liều 10mg/m2 mỗi tuần uống 1 lần và có thể tăng lên 0,5mg/kg/tuần. Trường hợp bệnh nhân bị viêm khớp lâu hơn 6 tháng, có thể dùng Methotrexat theo đường tiêm dưới da, liều 1mg/kg, mỗi tuần 1 lần.
Nếu người bệnh không đáp ứng với Methotrexat có thể dùng Hydroxychloroquine với liều mỗi ngày từ 5 đến 6mg/kg cho trẻ trên 4 tuổi. Ngoài ra, có thể thay thế bằng Sulfasalazine với liều từ 25 đến 50 mg/kg mỗi ngày, hoặc khởi đầu 12,5mg/kg với trẻ nhỏ hơn.
Nếu các phương pháp điều trị trên không cho đáp ứng tốt, cho trẻ tiêm dưới da 2 lần mỗi tuần bằng Etanercept mỗi lần là 0,4mg/kg. Etanercept có thể sử dụng kết hợp với Methotrexat hoặc không.
Khi bệnh viêm khớp này thoái lui, phối hợp thuốc được dùng liều như cũ trong vài tháng, rồi giảm liều corticoids và dừng đầu tiên. Các NSAIDs và Methotrexat được tiếp tục duy trì khi bệnh thoái lui tối thiểu trên 1 năm rồi NSAIDs dừng trước. Khi người bệnh được đánh giá thực sự ổn định rồi thì cho ngừng thuốc và thuốc Methotrexat.
Nếu bệnh viêm khớp tái phát trở lại thì cho trẻ dùng các thuốc với liều khi đạt được sự thoái lui bệnh.
4.2 Phương pháp điều trị với người bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát thể đa khớp RF (-)
Người bệnh cũng được bắt đầu điều trị bằng thuốc NSAIDs giống như trên.
Kết hợp thêm Sulfasalazine nếu bệnh không tiến triển tốt hơn sau 1 đến 2 tháng. Với các bé lớn hơn và bệnh trung bình có thể dùng Hydroxychloroquine để kết hợp thêm hoặc dùng đơn độc thuốc. Nếu sau 6 tháng mà bệnh vẫn nặng hơn, hay không thuyên giảm thì thay thế bằng Methotrexat.
Sử dụng Prednisone với liều mỗi ngày là 0,5 mg/kg, để cải thiện chức năng vận động khớp.
Nếu bệnh bắt đầu thoái lui, cần duy trì NSAIDs tối thiểu 6 tháng trước khi dừng hẳn và thuốc điều trị cơ bản DMARDs duy trì thêm 1 năm. Và ngừng thuốc nếu bệnh viêm khớp ở trẻ không có dấu hiệu tái phát. Trường hợp trẻ bị tái phát trở lại thì xử lý tương tự như trên.[2]
Trẻ cần được theo dõi và đánh giá định kỳ hàng tháng trong nhiều năm liền để để phòng tái phát và xử lý kịp thời.
Hy vọng, qua bài viết này bạn đọc phần nào hiểu rõ hơn về bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm đa khớp.
Tài liệu tham khảo
- ^ Tác giả: Edward J Oberle, Julia G Harris và James W Verbsky (Ngày đăng: ngày 24 tháng 10 năm 2014). Polyarticular juvenile idiopathic arthritis – epidemiology and management approaches, NCBI. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2022.
- ^ Tác giả: Renee A. Alli, MD (Ngày đăng: ngày 31 tháng 5 năm 2021). What Is Juvenile Idiopathic Arthritis?, WebMD. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2022.