1. Trang chủ
  2. Da Liễu
  3. Ứng dụng của các thiết bị phát năng lượng trong điều trị bệnh nám da

Ứng dụng của các thiết bị phát năng lượng trong điều trị bệnh nám da

Ứng dụng của các thiết bị phát năng lượng trong điều trị bệnh nám da

Trungtamthuoc.com - Laser và các thiết bị phát năng lượng đã được sử dụng để điều trị nhiều rối loạn ở da, bao gồm cả chứng rối loạn sắc tố. Việc lựa chọn thiết bị dựa trên một số yếu tố. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu về đặc điểm và ứng dụng của các thiết bị phát năng lượng trong điều trị bệnh nám da.

CÁC THIẾT BỊ PHÁT NĂNG LƯỢNG TRONG ĐIỀU TRỊ NÁM - Cập nhật một số vấn đề chẩn đoán và điều trị nám

Bác sĩ Trần Anh Hào

Tải bản PDF TẠI ĐÂY

1 MỞ ĐẦU

Laser và các thiết bị phát năng lượng đã được sử dụng để điều trị nhiều rối loạn ở da, bao gồm cả chứng rối loạn sắc tố. Việc lựa chọn thiết bị dựa trên một số yếu tố, trong đó khái niệm quang nhiệt chọn lọc là một trong những yếu tố quan trọng nhất khi điều trị bằng laser. Thuyết nhiệt chọn lọc là khái niệm cho rằng tia laser phát ra một bước sóng ánh sáng cụ thể được hấp thụ có chọn lọc bởi một mục tiêu hoặc một chromophore.

Chromophore, chẳng hạn như melanin, nước và hemoglobin, có nhiều bước sóng được hấp thụ, với một số sự chồng chéo giữa các chromophore. Các bước sóng được hấp thụ bởi melanin, chromophore được nhắm đến trong tình trạng tăng sắc tố và nám, nằm trong khoảng từ 600-1100nm, nghĩa là các thiết bị laser hoặc ánh sáng phải phát ra ánh sáng có bước sóng nằm trong phạm vi này.

Bước sóng của ánh sáng phát ra cũng là yếu tố quyết định độ sâu thâm nhập của tia laser. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của nám ở thượng bì so với lớp bì, vì độ sâu điều trị phải phù hợp với độ sâu của sắc tố bị thay đổi. Bước sóng tăng tương ứng với độ sâu thâm nhập sâu hơn, cho đến khi đạt được bước sóng khoảng 1200 nm. Tại thời điểm này, nước trở thành mục tiêu chính và độ sâu thâm nhập bị hạn chế do hàm lượng nước đáng kể ở các lớp trên của da. Laser xâm lấn nhắm vào nước có thể được sử dụng để điều trị nám do tác động phá hủy của chúng đối với lớp thượng bì và lớp bì nông.

Một nguyên tắc quan trọng khác là độ dài xung và mối quan hệ của nó với thời gian thư giãn nhiệt (TRT) của chromophore mục tiêu. Thời lượng xung là khoảng thời gian mà tia laser hoặc thiết bị phát ra chùm tia của nó. TRT được định nghĩa là khoảng thời gian để mục tiêu nguội đi 50% sau khi nhận được xung và nó tỷ lệ với bình phương đường kính của mục tiêu. Khi thời lượng xung đạt tới TRT, năng lượng và nhiệt sinh ra của tia laser bắt đầu khuếch tán đến các cấu trúc lân cận trong da, tạo ra tổn thương ngoài ý muốn. Do đó, thời lượng xung không được vượt quá TRT của mục tiêu đã định. Với kích thước tương đối nhỏ của melanosome với TRT khoảng 50-500 ns, thời lượng xung tối ưu thường nằm trong khoảng nano- hoặc pico giây.

2 CÁC THIẾT BỊ PHÁT NĂNG LƯỢNG

2.1 QS laser

Các loại laser QS khác nhau (QS-ruby, QS-alexandrite, QS-Nd:YAG) từ lâu đã được coi là một trong những lựa chọn tối ưu để điều trị bằng laser các sắc tố màu nâu, đen và xanh ở lớp bì và thượng bì. Về mặt lý thuyết, những tia laser này nhắm mục tiêu vào melanin tốt hơn nhờ bước sóng và thời lượng xung nano giây của chúng. Ngoài ra, năng lượng cao trong khoảng thời gian xung ngắn hơn do laser QS tạo ra sẽ gây ra tổn thương quang - âm đối với melanin. Laser QS phát ra bước sóng 694 nm đối với QS-ruby (QSRL), 755 nm đối với QS-Alexandrite, 1064 nm đối với QS-Nd:YAG và 532 nm đối với tần số gấp đôi QS-Nd:YAG.

Mặc dù hiệu quả của laser QS đã được chứng minh trong việc loại bỏ sắc tố hình xăm và các tổn thương sắc tố khác nhau trên da, nhưng các nghiên cứu đã chứng minh rằng không có lợi ích rõ ràng nào của laser QS trong điều trị nám và PIH bằng các phương pháp truyền thống. Trên thực tế, các nghiên cứu của Taylor, Anderson và Tse và cộng sự đều cho thấy tình trạng PIH và nám trở nên trầm trọng hơn ở những bệnh nhân được điều trị bằng QSRL. Đặc biệt trong nghiên cứu của Tse và cộng sự, những bệnh nhân bị nám được điều trị bằng QSRL đã mắc phải PIH từ quá trình điều trị. Tương tự như vậy, những bệnh nhân trong một nghiên cứu chỉ so sánh QSAL với laser CO2 bằng QSAL cho thấy không có sự cải thiện nào ở những người được điều trị bằng laser QS đơn thuần. Nhiều nghiên cứu khác đánh giá QSRL hoặc QS-Nd:YAG dưới dạng đơn trị liệu không mang lại lợi ích gì, như đã được chỉ ra trong một bài báo đánh giá của Ogbechie-Godec và Elbuluk. Moubasher và cộng sự so sánh việc sử dụng QS-Nd:YAG và các mức độ khác nhau của peel bằng axit trichloroacetic (TCA) (20%-30%) ở bệnh nhân Ai Cập. Sự cải thiện được thấy ở nhóm được điều trị bằng peel TCA 25% cao hơn đáng kể so với ba nhóm còn lại của nghiên cứu, bao gồm cả nhóm được điều trị bằng laser. Tuy nhiên, những bệnh nhân có tỷ lệ mắc PIH cao nhất là những bệnh nhân được điều trị bằng QS-Nd:YAG.

Nhiều tác giả báo cáo rằng QS-Nd:YAG năng lượng thấp, còn được gọi là như laser toning, có thể hiệu quả hơn so với kĩ thuật truyền thống. Kỹ thuật điều trị này được đặc trưng bởi năng lượng thấp (1,6- 3,5 J/cm2), spot size lớn (6-8 mm), thực hiện nhiều pass mỗi 1-2 tuần cho nhiều lần điều trị. Mặc dù việc điều trị bằng laser đã cho thấy một số cải thiện ban đầu về sắc tố nhưng vẫn có tỷ lệ tái phát và rối loạn sắc tố cao sau điều trị, đặc biệt ở những bệnh nhân thuộc loại da III-V. Wattanakrai và cộng sự đã so sánh việc sử dụng QS Nd:YAG năng lượng thấp với Hydroquinone 2% tại chỗ so với chỉ sử dụng hydroquinone 2% trong nghiên cứu chia đôi khuôn mặt. Bên được điều trị bằng laser đã chứng minh sự cải thiện tổng thể 76% về chỉ số MASI và cải thiện tương đối 92%, ngoài ra kết hợp laser và hydroquinone 2% đều cao hơn so với chỉ sử dụng hydroquinone đơn thuần. Tuy nhiên, tất cả các bệnh nhân đều bị tái phát nám và một số bệnh nhân bị giảm sắc tố ở vùng điều trị. Fabi và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu chia đôi mặt về QS-Nd:YAG năng lượng thấp và QSAL năng lượng thấp, sử dụng MASI đã sửa đổi để đo lường hiệu quả. Cả hai phương thức đều mang lại sự cải thiện đáng kể về MASI sau hai lần điều trị và qua các khoảng thời gian theo dõi (lần lượt là 36% và 44% sau 2 tuần; 27% và 19% sau 24 tuần đối với QS-Nd:YAG và QSAL). Không tìm thấy sự khác biệt đáng kể giữa điều trị bằng QS-Nd: YAG so với QSAL. Trong số 16 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, có 1 người bị tăng sắc tố ở cả hai má.

Mặc dù có kết quả đáng thất vọng với laser QS khi sử dụng đơn trị liệu, nhưng có bằng chứng cho thấy laser QS được sử dụng kết hợp với các phương pháp điều trị khác, chẳng hạn như laser, IPL, peel hoặc các sản phẩm bôi ngoài da, sẽ hiệu quả hơn so với chỉ điều trị bằng một phương pháp riêng lẻ. Như đã đề cập ở trên, Wattanakrai và các cộng sự đã chứng minh rằng laser QS với 2% HQ có hiệu quả hơn so với chỉ dùng 2% HQ. Utuner và các đồng nghiệp đã chứng minh rằng sự kết hợp giữa QS-Nd:YAG và lăn kim với Vitamin C có hiệu quả hơn so với chỉ sử dụng QS-Nd:YAG. Hơn nữa, 12 trong số 16 bệnh nhân được điều trị bằng laser không đáp ứng với liệu pháp điều trị, cho rằng vai trò của liệu pháp đơn trị liệu bằng laser là không đáng kể. Một thử nghiệm được thực hiện bởi Yun và các cộng sự cho thấy sự cải thiện đáng kể về điểm số MASI ở những bệnh nhân được điều trị bằng sự kết hợp QS-Nd:YAG và IPL phân đoạn (f-IPL) ở mức độ lưu lượng thấp so với những bệnh nhân được điều trị bằng f-IPL đơn thuần. Vachiramon và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu tương tự nhưng so sánh sự kết hợp giữa IPL và QS-Nd:YAG với đơn trị liệu QS-Nd:YAG. mMASI đã cải thiện 40% ở nhóm đơn trị liệu, trong khi liệu pháp phối hợp mang lại sự cải thiện 60% về mMASI. Điều thú vị là, tỷ lệ tái phát ở liệu pháp kết hợp cao hơn một chút so với đơn trị liệu (tương ứng là 33%-11%). Một nhóm do Vachiramon dẫn đầu đã thực hiện một nghiên cứu so sánh khác về chia đoois khuôn mặt, so sánh liệu pháp đơn trị liệu QS-Nd:YAG mật độ năng lượng thấp với QS mật độ năng lượng thấp cộng với 30% axit glycolic ở các bệnh nhân nam. Nghiên cứu này sử dụng chỉ số độ sáng tương đối trung bình và mMASI để đo lường kết quả. Trong khi có sự cải thiện đáng kể ở nhóm phối hợp (tối đa 37,6%), không có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê nào được ghi nhận ở nhóm đơn trị liệu. Một bệnh nhân đã bị giảm sắc tố dai dẳng ở cả hai má và tình trạng này không được cải thiện tại thời điểm kết thúc quá trình theo dõi trong nghiên cứu này.

Tóm lại có thể xem QS laser như là một liệu pháp bố trợ tăng cường hiệu quả của các điều trị khác trong khi sử dụng đơn trị liệu cho kết quả không đáng kể và tăng nguy cơ PIH hoặc mất/giảm sắc tố sau viêm.

2.2 Pico laser

Như đã đề cập trước đây, kích thước nhỏ của melanosome đòi hỏi độ rộng xung trong phạm vi nano- đến pico giây để tránh vượt quá TRT. Laser pico giây, với lượng năng lượng cao được cung cấp trong thời gian ngắn, đáp ứng yêu cầu này và cũng quan trọng là gây ra tổn thương quang cơ hoặc quang âm. Kết quả là các melanosome bị vỡ và các hạt sắc tố khác sau đó sẽ được loại bỏ thông qua quá trình thực bào. Laser pico giây cũng có thể được sử dụng làm thiết bị phân đoạn với dãy thấu kính nhiễu xạ hoặc thấu kính ba chiều, cho phép đạt năng lượng cực đại cao hơn. Những tia laser picosecond phân đoạn này phát huy tác dụng của chúng thông qua sự hình thành plasma ion hóa được hỗ trợ bởi chromophore.

Toàn bộ tác động của "sự phá hủy quang học do laser gây ra" này được tóm tắt trong một bài đánh giá mang tính hệ thống của Wu và cộng sự. Laser Picosecond có nhiều dạng và bước sóng khác nhau, bao gồm alexandrite (PSAL) (755 nm) và Nd:YAG (1064, 532). nm), 670 và 785 nm.

Trong tổng quan hệ thống về laser picosecond của Wu và cộng sự, hầu hết các nghiên cứu về nám đều chứng minh sự cải thiện khi sử dụng laser picosecond. Một số nghiên cứu liên quan đến nám đã chứng minh sự cải thiện đáng kể khi so sánh với các loại laser QS khác.

Wang và cộng sự đã so sánh PSAL ở các khoảng thời gian khác nhau với TCC trong điều trị nám. Hai phác đồ điều trị cho PSAL là ba lần điều trị cách nhau 4 tuần hoặc năm lần điều trị cách nhau 4 tuần. Điểm MASI được cải thiện ở cả ba nhóm mà không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm. Nghiên cứu này cũng sử dụng hệ thống phân tích hình ảnh VISIA® cho thấy lợi ích của cả hai nhóm laser về các đốm nâu, nếp nhăn, kích thước lỗ chân lông, đốm UV và porphyrin. Trong khi một số bệnh nhân có biểu hiện tăng sắc tố (2 trong số 11 bệnh nhân được điều trị bằng 5 đợt điều trị bằng laser), tất cả các tác dụng phụ đều được cải thiện theo thời gian theo dõi và không có bệnh nhân nào bị giảm sắc tố.

Để làm nổi bật sự khác biệt trong PSAL không phân đoạn và phân đoạn, Manuskiatti et al. đã thực hiện một nghiên cứu ngẫu nhiên, phân chia khuôn mặt bằng cách sử dụng PSAL có và không có khớp nối mảng thấu kính nhiễu xạ để đạt được phân đoạn. Có sự cải thiện đáng kể về mặt thống kê về độ thanh thải nồng độ melanin ở bên không phân đoạn so với bên phân đoạn. Mặt khác, tất cả các biện pháp khác đều cho thấy sự cải thiện so với ban đầu và không có sự khác biệt đáng kể giữa các phương pháp điều trị. Tuy nhiên, điều trị phân đoạn được ghi nhận là gây đau đáng kể. Điều quan trọng là tất cả PIH phát triển trong quá trình nghiên cứu đều mang tính tạm thời và được giải quyết sau 1 tháng.

Các nghiên cứu khác đã được thực hiện bằng cách sử dụng laser picosecond Nd: YAG để điều trị nám. Choi và cộng sự đã sử dụng laser picosecond bước sóng kép, có độ dài 1064 và 595 nm. Phương pháp điều trị bằng laser này được kết hợp với 2% HQ và nhóm so sánh chỉ áp dụng 2% HQ tại chỗ. Trong quá trình xử lý, thực hiện hai đến bốn lần truyền ở bước sóng 1064 nm, ngay sau đó là một đến hai lần truyền ở bước sóng 595 nm. Bệnh nhân được điều trị 5 lần bằng laser trong khoảng thời gian 1 tuần. Kết quả cho thấy sự kết hợp giữa laser picosecond và HQ vượt trội hơn về mặt thống kê so với chỉ riêng HQ. Chalermchai và cộng sự đã so sánh laser picosecond 1064 nm phân đoạn với 4% HQ với 4% HQ trong một thử nghiệm chia đôi mặt ở 30 bệnh nhân có loại da III hoặc IV. So sánh mMASI cho thấy sự cải thiện đáng kể khi chỉ điều trị kết hợp so với HQ ở Tuần 12. Tuy nhiên, không có sự khác biệt thống kê về tỷ lệ bệnh nhân đạt được sự cải thiện từ 50% trở lên giữa hai nhóm.

2.3 Non-ablative fractionated laser

Cả NFL và laser phân đoạn xâm lấn (AFL) đều phát huy tác dụng của chúng thông qua việc tạo ra hàng nghìn vùng điều trị vi nhiệt (MTZ) sau mỗi lần bắn tia laser. Những MTZ này có thể được hình dung như những cột tổn thương do nhiệt. Mức năng lượng được sử dụng xác định đường kính và độ sâu thâm nhập của MTZ, trong khi số lượng pass và mật độ quyết định tỷ lệ diện tích bề mặt bị ảnh hưởng bởi tia laser. Liệu pháp laser phân đoạn có ưu điểm là không tạo ra vết thương hở, cho phép vết thương lành nhanh hơn và giảm nguy cơ thay đổi sắc tố và sẹo. Các MTZ cũng có thể thâm nhập sâu hơn, cho phép điều trị melanin bì hoặc sắc tố ở da. Sắc tố sau đó được loại bỏ bằng cách loại bỏ MTZ qua thượng bì, như đã thảo luận bởi Hantash và cộng sự. Các bước sóng NFL thường được sử dụng là 1440, 1540, 1550 nm (FDA phê chuẩn cho nám 2005) và 1927 nm. Như đã thảo luận trong bài đánh giá của Trivedi và cộng sự, ba bước sóng trước đây đạt được hiệu quả lâm sàng bằng cách thâm nhập sâu đến lớp bì lưới và tạo ra sản xuất Collagen, đồng thời tránh tác động vào các lớp thượng bì phía trên điểm nối bì-thượng bì.

Các nghiên cứu được thực hiện vào năm 2009 bởi Rokhsar cùng các cộng sự và Lee cùng các cộng sự đã chứng minh sự cải thiện sau khi điều trị bằng NFL 1550 nm. Kroon và cộng sự đã so sánh hiệu quả của phương pháp điều trị được FDA phê chuẩn này với tiêu chuẩn vàng về điều trị nám, TCC. Một nửa số bệnh nhân được điều trị bằng TCC (sự kết hợp của 5% HQ, Tretinoin 0,05% và kem Triamcinolone 0,1%), trong khi những người còn lại được điều trị bốn lần trong khoảng thời gian 2 tuần với NFL Erbium glass 1550nm ở mật độ khoảng 2000-2500 MTZ/cm2. Tỷ lệ bao phủ được điều chỉnh cho loại da của bệnh nhân, dao động từ loại da Fitzpatrick II-V trong đoàn hệ này. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy không có sự khác biệt về sự cải thiện hoặc tỷ lệ tái phát giữa hai nhóm, với hầu hết bệnh nhân tái phát sắc tố sau 6 tháng theo dõi.

Hong và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu chia nữa mặt so sánh NFL 1550 nm và peel da 15% TCA. Cả hai phương pháp điều trị chỉ được thực hiện một lần trong nghiên cứu này, điều này có thể hạn chế hiệu quả NFL trong nghiên cứu này vì nó cần nhiều lần điều trị. Mặc dù điểm số MASI ban đầu được cải thiện trong khoảng thời gian 4 tuần ở cả hai nhóm, nhưng điểm số sau đó quay trở lại giá trị cơ bản hoặc thậm chí cao hơn đối với cả hai nhóm. Không có sự khác biệt đáng kể được xác định giữa hai nhóm. Kim và cộng sự cũng đã thử nghiệm sự kết hợp giữa NFL 1550 nm và QS-Nd:YAG so với chỉ QS-Nd:YAG trong một nghiên cứu chia đôi khuôn mặt. Giống như nghiên cứu trước đây, không thấy có sự khác biệt giữa hai nhóm điều trị.

Wanitphakdeedecha và cộng sự đã đánh giá hiệu quả của NFL 1410 nm, điều trị toàn bộ khuôn mặt bằng 4 pass tới các vùng bị nám. Hai cài đặt khác nhau được sử dụng theo kiểu chia đôi khuôn mặt (20 m) với độ che phủ 5%; 20 mJ với độ che phủ 20%). Sự cải thiện về MASI và MI được thấy ở cả hai nhóm. Tuy nhiên, mức độ hài lòng chung của bệnh nhân thấp hơn và tỷ lệ biến chứng cao hơn ở khu vực được bao phủ 20%. Vì vậy, các tác giả kết luận mức độ bao phủ 5% là tối ưu.

Diode NFL 1927 nm là một thiết bị khác đã được nghiên cứu để điều trị nám và tăng sắc tố. Wilson và cộng sự đã nghiên cứu loại laser này có và không có 2% HQ. Nghiên cứu này sử dụng Chỉ số mức độ nghiêm trọng và vùng sắc tố lốm đốm (MoPASI), một phiên bản sửa đổi của MASI. Sự cải thiện được thấy ở cả hai nhóm điều trị, kết quả này được duy trì sau 12 tuần theo dõi, nhưng không thấy sự khác biệt giữa các nhóm. Điều thú vị là những bệnh nhân trong nhóm được điều trị bằng kem dưỡng ẩm và NFL hài lòng hơn đáng kể so với nhóm được điều trị bằng HQ và NFL. Polder và cộng sự đã điều trị cho các bệnh nhân bằng sự kết hợp giữa NFL 1550 và 1927 nm cho thấy sự cải thiện đáng kể ở những bệnh nhân này khi so sánh với mức cơ bản, với sự cải thiện kéo dài sau 6 tháng sau điều trị.

2.4 Ablative fractionated laser

Các loại laser xâm lấn được nghiên cứu để điều trị nám bao gồm laser CO2 10.600 nm và laser erbium- doped yttrium aluminum garnet (Er: YAG) 2940 nm. Các bước sóng này nhắm mục tiêu chromophore là nước. Sử dụng các tia laser này theo cách phân đoạn với MTZ như đã thảo luận ở trên cho phép giảm thời gian phục hồi và giảm tỷ lệ biến chứng, tương tự như NFL.

Một số nghiên cứu đã cho thấy lợi ích của laser CO2 khi kết hợp với các phương pháp điều trị khác, chẳng hạn như QSAL hoặc TCC. Nouri cùng với các cộng sự cũng như Angsuwarangsee và cộng sự đều chứng minh sự cải thiện đáng kể khi kết hợp laser CO2 và QSAL so với chỉ sử dụng một trong hai phương pháp. Các bệnh nhân trong nghiên cứu của Nouri và cộng sự cũng được điều trị trước bằng công thức Kligman, một TCC cụ thể. Nghiên cứu của Angsuwrangsee và cộng sự cũng lưu ý rằng PIH xảy ra ở một số bệnh nhân, đặc biệt là những người có loại da sẫm màu hơn.

Trong một nghiên cứu của Trelles và cộng sự, bệnh nhân được chia thành các nhóm điều trị sau: chỉ dùng laser CO2, chỉ dùng công thức bôi ngoài da của Kligman hoặc cả điều trị bằng laser và bôi tại chỗ. Kết quả cho thấy điểm MASI được cải thiện đáng kể ở những người được điều trị bằng cả laser và tại chỗ sau 6 và 12 tháng theo dõi, với một số mức độ cải thiện được thấy ở cả ba nhóm. Jalaly và cộng sự đã so sánh tác động của CO2 công suất thấp hơn và QS-Nd:YAG, cho thấy sự cải thiện lớn hơn ở nhóm điều trị CO2 thông qua điểm mMASI.

Tawfic và cộng sự đã nghiên cứu tác động của phương pháp điều trị bằng laser CO2 kết hợp với axit tranexamic tại chỗ hoặc trong da (TXA) so với chỉ sử dụng laser với nghiên cứu chia khuôn mặt. Bệnh nhân được điều trị bằng CO2 đơn thuần hoặc CO2 kết hợp với dung dịch TXA. TXA được kết hợp điều trị tại chỗ ngay lập tức sau laser hoặc điều trị trước laser bằng cách tiêm vi mô trong da. Kết quả cho thấy sự cải thiện ở cả hai bên, nhưng mức độ cải thiện MASI cao hơn ở bên chỉ nhận laser. Sự cải thiện nhiều hơn về MI đã được thấy ở những người nhận TXA trong da so với chỉ dùng laser, nhưng điều này không đáng kể.

Manaloto và cộng sự đã báo cáo về điều trị nám bằng Er:YAG AFL vào năm 1999. Mặc dù có bằng chứng cho thấy sự cải thiện nhanh chóng trong nghiên cứu này nhưng tất cả các bệnh nhân đều bị PIH sau điều trị. Kết quả tương tự về sự cải thiện ban đầu, sau đó là PIH và tái phát đã được ghi nhận trong một nghiên cứu của Attwa và cộng sự trên 15 bệnh nhân nữ được điều trị bằng Er:YAG. Năm 2019, Garg và cộng sự đã công bố một nghiên cứu so sánh pixel QS-Nd:YAG, siêu trẻ hóa da (540 nm) và pixel xâm lấn Er:YAG. Kết quả từ nhóm này cho thấy mMASI giảm đáng kể ở cả ba nhóm, trong khi Er:YAG giảm mMASI tối đa so với hai nhóm còn lại. Các tác giả kết luận rằng Er:YAG điều trị nám da và hỗn hợp tốt hơn, trong khi QS-Nd:YAG và siêu trẻ hóa da điều trị nám biểu bì tốt hơn.

2.5 PDL

PDL thường được coi là tiêu chuẩn vàng để điều trị hầu hết các tổn thương mạch máu hoặc ban đỏ. Bước sóng 595 nm của nó nhắm vào hemoglobin như chromophore mục tiêu. Hiệu quả của laser mạch máu đối với nám là do nhắm mục tiêu vào thành phần mạch máu, từ đó dẫn đến giảm sản xuất melanin.

Các nghiên cứu còn hạn chế về các phương pháp điều trị nám này. Passeron và cộng sự đã so sánh PDL với TCC so với chỉ PDL. Mặc dù lợi ích đã được ghi nhận ở cả hai nhóm điều trị, nhưng tỷ lệ PIH tăng lên đã được ghi nhận ở những bệnh nhân có loại da IV chỉ được điều trị bằng PDL. Geddes và cộng sự đã thực hiện đánh giá hồi cứu các bệnh nhân được điều trị bằng cả PDL và NFL 1927 nm. Sáu trong số 11 bệnh nhân trong nghiên cứu cho thấy tình trạng nám của họ được cải thiện hơn 50%. Quá trình theo dõi kéo dài từ 3 đến 36 tuần và không có hiện tượng nám tái phát hoặc rối loạn sắc tố sau laser được báo cáo ở những bệnh nhân này.

2.6 IPL

IPL thường được thảo luận cùng với các thiết bị laser; tuy nhiên, thiết bị này không phải là tia laser thực sự. IPL tạo ra sóng ánh sáng phố rộng (500-1200 nm), có thể được tinh chỉnh thành các bước sóng cụ thế bằng cách sử dụng bộ lọc. Các bộ lọc cho phép thực hiện một loạt ứng dụng của IPL bao gồm điều trị sắc tố melanin, như được thấy trong cách sử dụng phổ biến của nó đối với các vết nám và lão hóa do ánh sáng.

Năm 2008, Li và cộng sự đánh giá việc sử dụng IPL ở bệnh nhân Trung Quốc bị nám và da loại III và IV. Trong nghiên cứu nhãn mở này, các nhà nghiên cứu mù đã nhận thấy sự cải thiện ở khoảng 75% bệnh nhân sau khi hoàn thành bốn đợt điều trị với sự cải thiện đáng kể về điểm MASI trung bình sau 3 tháng theo dõi.

Một nghiên cứu từ Wang và các cộng sự năm 2004 đã so sánh hiệu quả của IPL và 4% hydroquinone (HQ) so với HQ đơn thuần trong điều trị nám nám. Bệnh nhân được điều trị bằng cả HQ và IPL có sự cải thiện lớn hơn về chỉ số melanin tương đối (39,8%) so với những người chỉ điều trị bằng HQ (11,6%). Đáng chú ý, tình trạng tăng sắc tố sau viêm thoáng qua cũng như quá trình tái tạo sắc tố một phần bị trì hoãn đã được quan sát thấy ở một số bệnh nhân được điều trị bằng HQ và IPL. Một nghiên cứu so sánh IPL đơn thuần với IPL kết hợp TCC (HQ phức hợp, retinoid và corticosteroid) của Goldman và cộng sự cho thấy sự kết hợp giữa IPL với TCC có hiệu quả hơn, với hơn 50% bệnh nhân được điều trị bằng IPL và TCC gần như sạch hoàn toàn các tổn thương nám sau 10 tuần. Kết quả tương tự của liệu pháp phối hợp có hiệu quả hơn IPL đơn thuần cũng được thấy trong các nghiên cứu khác.

Trong khi nhiều bài báo mô tả hiệu quả của IPL đơn thuần hoặc kết hợp với các phương thức điều trị khác, những bài báo khác nhận thấy IPL ít hữu ích hơn và có khả năng gây hại đặc biệt đối với nám. Chung và cộng sự cho thấy không có lợi ích đáng kể nào đối với MASI hoặc MI trong thử nghiệm chia đôi khuôn mặt ở phía chỉ sử dụng IPL. Với IPL, có nguy cơ nám tái phát đáng kể, như được mô tả trong nhiều bài báo và kinh nghiệm của tác giả. Việc sử dụng cũng bị giới hạn đối với những người có làn da Fitzpatrick IV và thấp hơn do có nguy cơ gặp phải các kiểu da sẫm màu hơn. Với những rủi ro và hạn chế này, IPL không được sử dụng phổ biến cho những mục đích này.

2.7 RF và sóng siêu âm

Hai thiết bị sử dụng năng lượng khác gần đây đang được nghiên cứu vì lợi ích của chúng trong điều trị tăng sắc tố và nám là RF và thiết bị siêu âm tập trung cường độ cao (HIFU). Cả hai thiết bị đều giúp làm săn chắc và trẻ hóa da, nhưng vẫn còn hạn chế về hiệu quả của chúng đối với các rối loạn sắc tố.

Các thiết bị RF tạo ra dòng điện được chuyển đổi thành năng lượng nhiệt khi dòng điện chạm vào mô. Điều quan trọng là nó đã cho thấy sự an toàn trên mọi loại da. Cameli và cộng sự đã đánh giá hiệu quả của RF đơn cực để cải thiện việc cung cấp thuốc axit kojic 1%. Sự cải thiện ở MASI đã được nhìn thấy khi theo dõi.

HIFU sử dụng sóng âm để gây tổn thương nhiệt bên dưới bề mặt da. Choi và cộng sự đã chứng minh sự cải thiện sắc tố do UVB gây ra trên da chuột lang, đề xuất rằng HIFU có tác dụng phá hủy cơ học giúp loại bỏ sắc tố từ lớp thượng bì và lớp bì nông. Vachiramon và các cộng sự đã báo cáo các kết quả khác nhau trong một nghiên cứu sử dụng HIFU để điều trị chứng tăng sắc tố do tia UV, trong đó bệnh nhân có da loại III cho thấy sự cải thiện nhiều hơn ở nhóm đối chứng, trong khi bệnh nhân có da loại IV cho thấy sự cải thiện nhiều hơn khi sử dụng HIFU. Trong một nghiên cứu chia nữa mặt khác những bệnh nhân bị nám, HIFU kết hợp với 2% HQ được so sánh với 2% HQ đơn thuần, cùng với việc tiếp tục bảo vệ da khỏi ánh nắng hàng ngày. Chỉ số độ sáng tương đối và MASI phía má được cải thiện đáng kể so với ban đầu ở phía HIFU, nhưng không có sự khác biệt đáng kể khi so sánh với sự cải thiện được thấy ở phía chỉ được điều trị bằng HQ.


* SĐT của bạn luôn được bảo mật
* Nhập nếu bạn muốn nhận thông báo phẩn hồi email
Gửi câu hỏi
Hủy
    (Quy định duyệt bình luận)
    0/ 5 0
    5
    0%
    4
    0%
    3
    0%
    2
    0%
    1
    0%
    Chia sẻ nhận xét
    Đánh giá và nhận xét
      vui lòng chờ tin đang tải lên

      Vui lòng đợi xử lý......

      0 SẢN PHẨM
      ĐANG MUA
      hotline
      1900 888 633