Thuốc Kháng Histamin-Sự khác biệt giữa kháng histamin thế hệ 1 và 2
![Thuốc Kháng Histamin-Sự khác biệt giữa kháng histamin thế hệ 1 và 2](/images/news/histamin-2-5085.jpg)
Tác giả: Michael J. Isaacs và Michael D. Tharp
Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ
Tải PDF bản dịch TẠI ĐÂY
1 Các câu hỏi
Q32.1 Các thuốc kháng histamine thế hệ thứ nhất và thứ hai khác nhau như thế nào về đặc tính ưa mỡ và tác dụng kháng cholinergic, và sự khác biệt về mặt lâm sàng là gì?
Q32.2 Ưu điểm của thuốc kháng histamine thế hệ thứ hai so với thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất là gì?
Q32.3 Đối với bệnh nhân mày đay mãn tính, (1) tỷ lệ tự kháng thể được tạo ra là bao nhiêu và (2) hai loại tự kháng thể nào là điển hình của phân nhóm này?
Q32.4 Các thụ thể H1 và H2 khác nhau như thế nào về vai trò của chúng trong (1) ngứa, (2) giãn mạch, (3) tăng tính thấm thành mạch và (4) ức chế tế bào lympho T?
Q32.5 Tác dụng của thuốc kháng histamine H2 đối với thụ thể H2 trên tế bào lympho T về mặt dược lý và lâm sàng là gì?
Q32.6 Khái niệm thuốc kháng histamine hoạt động như là chất đối kháng cạnh tranh của histamine (lý thuyết truyền thống) với 'chất chủ vận nghịch đảo' (lý thuyết hiện tại) khác nhau như thế nào?
Q32.7 Đặc tính dược lý nào cho phép duy tác dụng điều trị của thuốc kháng histamine lâu hơn đáng kể so với thời gian bán hủy trong huyết tương của một thuốc kháng histamine nhất định?
Q32.8 Thuốc kháng histamine thế hệ thứ hai hiện nay đại diện cho (1) sản phẩm thuốc có hoạt tính của tiền thuốc, hoặc (2) chất chuyển hóa có hoạt tính của thuốc kháng histamine trước đó?
Q32.9 Thuốc kháng histamine thế hệ thứ hai có tác dụng an thần nhẹ nhất là gì và điều này có thể là ưu điểm hay nhược điểm như thế nào, tùy theo hoàn cảnh lâm sàng??
Q32.10 Cimetidine và doxepin ức chế thụ thể histamine nào và làm thế nào để so sánh các đặc tính này với thuốc kháng histamine thế hệ thứ nhất truyền thống?
Q32.11 Thuốc kháng histamine có hiệu quả như thế nào trong điều trị viêm da cơ địa dị ứng?
2 Các từ viết tắt
AE Adverse effect (event)
CYP Cytochrome P-450
FcεRIα High-affinity immunoglobulin E receptor
HSF Histamine-stimulating factor
IgE Immunoglobulin E
IgG Immunoglobulin G
3 Tổng quan lịch sử
3.1 Thuốc kháng histamine H1 thế hệ đầu tiên
Các thuốc kháng histamine H1 thế hệ đầu tiên gồm các ete dựa trên cấu trúc vòng imidazole của histamine. Thuốc kháng histamine hữu dụng lâm sàng đầu tiên là mepyramine. Theo sau là diphenhydramine hydrochloride, là thuốc kháng histamine đầu tiên được nghiên cứu chính thức ở Bắc Mỹ và được FDA phê duyệt vào năm 1946.1,2 Sau đó, các loại thuốc mới đã được phát triển và đưa ra thị trường là những cải tiến tương đối nhỏ đối với các thuốc kháng histamine nguyên mẫu này, chủ yếu dựa trên sự biến đổi chuỗi bên của vòng imidazole. Không có đổi mới đáng kể nào xuất hiện cho đến khi có nỗ lực thay đổi cấu trúc vòng imidazole, cuối cùng dẫn đến sự phát triển của thuốc kháng histamine H2.
Từ lâu, người ta đã nhận ra rằng thuốc kháng histamine thế hệ thứ nhất không có hiệu quả trong việc ngăn chặn sự tiết axit dạ dày do histamine gây ra. Ash và Schild là những người đầu tiên cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho loại thụ thể histamine thứ hai, được đặt tên là thụ thể H2.3 Một loại thuốc kháng histamine mới, chọn lọc đối với thụ thể H2, dựa trên sự biến đổi của vòng imidazole, và thuốc đầu tiên được cấp phép trong nhóm mới này là cimetidine. Mặc dù các thụ thể H2 được biết là có biểu hiện trên các mạch máu ở da, nhưng thuốc kháng histamine H2 chỉ có tác dụng khiêm tốn đối với các phản ứng phát ban và mày đay do histamine gây ra trên da.4 Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi thuốc kháng histamine H2 gây thất vọng khi dùng đơn lẻ hoặc kết hợp với thuốc kháng histamine H1 trong điều trị ngứa và nổi mày đay vô căn mãn tính (CIU). 5 Thực tế lâm sàng này đặc biệt đáng thất vọng vì thuốc kháng histamine H2 tương đối không có tác dụng phụ (AE) thường liên quan đến thuốc kháng histamine H1.
3.2 Thuốc kháng histamin H1 thế hệ thứ hai
Cuối những năm 1980 đến những năm 1990 đã xuất hiện một loại thuốc kháng histamine H1 thế hệ mới (thế hệ thứ hai), với việc gây buồn ngủ hoặc suy giảm chức năng nhận thức không đáng kể. Những thuốc kháng histamine 'ít an thần' này được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị CIU, viêm kết mạc dị ứng và viêm mũi dị ứng.
Tác dụng an thần của thuốc kháng histamine H1 thế hệ đầu tiên có liên quan đến chức năng của histamine như một chất dẫn truyền thần kinh.
Các nghiên cứu chụp cắt lớp phát xạ Positron sử dụng doxepin [11C] chỉ ra rằng thụ thể H1 được biểu hiện cao ở vỏ não và khi được kích hoạt sẽ nâng cao mức độ tỉnh táo. Do đó, thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất được cho là sẽ làm giảm sự tỉnh táo và làm suy giảm chức năng nhận thức bằng cách can thiệp vào việc liên kết giữa histamine với thụ thể H1.6 Q32.1 Tuy nhiên, thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai có khả năng hạn chế trong việc vượt qua hàng rào máu não do do tính ưa mỡ thấp, nên chúng có tác dụng tối thiểu đối với hệ thần kinh trung ương (CNS). Ngoài ra, do chúng có tính chọn lọc cao đối với thụ thể H1, nên thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai có tác dụng phụ kháng cholinergic (muscarinic) tối thiểu so với thuốc thế hệ thứ nhất. Đối với một số bệnh da liễu nhất định, đặc tính an thần của thuốc kháng histamine H1 thế hệ đầu tiên có thể có lợi như điều trị ngứa với viêm da cơ địa dị ứng (AD). Q32.2 Tuy nhiên, thuốc kháng histamine có tác dụng an thần thấp là lựa chọn ưu tiên cho hầu hết các rối loạn về da do giới hạn an toàn được cải thiện và thời gian tác dụng dài hơn, cả hai đều giúp nâng cao sự tuân thủ của bệnh nhân.
Ketotifen, một thuốc kháng histamine H1 được cho là có khả năng bổ sung để ức chế sự thoái hóa của tế bào mast, mang lại lợi ích khiêm tốn cho bệnh nhân bị mày đay vật lý và bệnh tế bào mast.7 Tuy nhiên, Ketotifen không làm giảm đáng kể sự bài tiết histamine qua nước tiểu hoặc các chất chuyển hóa của nó ở những bệnh nhân mắc các rối loạn này, do đó đặt ra câu hỏi về khả năng ổn định tế bào mast của nó. Do đó, thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất và thứ hai vẫn là phương pháp điều trị chính cho hầu hết các rối loạn qua trung gian histamine.
3.3 Tế bào mast, các chất trung gian và kích thích của nó
Histamine được tế bào mast tổng hợp từ histidine bởi histidine decarboxylase và liên kết không cộng hóa trị trong các hạt của nó. Sau khi được giải phóng khỏi tế bào mast, histamine bị phân hủy bởi quá trình N-methyl hóa hoặc khử amin oxy hóa. Amin này tác động lên nhiều loại tế bào trong da, bao gồm tế bào nội mô, tế bào thần kinh và tế bào có khả năng miễn dịch. Các bệnh trong đó histamine đóng vai trò then chốt ở da bao gồm hầu hết các dạng nổi mày đay, bệnh tế bào mast ở da và phản ứng cấp tính do côn trùng cắn. Tuy nhiên, tầm quan trọng của phân tử này trong tình trạng ngứa liên quan đến AD vẫn còn gây tranh cãi. Nỗ lực làm giảm nồng độ histamine trong mô ở da và các cơ quan khác bằng cách can thiệp vào quá trình sinh tổng hợp của nó đã được chứng minh là không thành công.
Sự tiết hoặc giải phóng histamine xảy ra do hậu quả của các kích thích miễn dịch và không miễn dịch. Tế bào mast ở da biểu hiện đặc trưng các thụ thể immunoglobulin E (IgE) ái lực cao (FcεRI) trên bề mặt của chúng. Liên kết ngang kháng nguyên của IgE gắn với thụ thể kích hoạt giải phóng histamine và các chất trung gian khác từ tế bào mast bao gồm: chymase, tryptase, eicosanoids và nhiều loại cytokine. Q32.3 Các yếu tố kích hoạt tế bào mast khác bao gồm kháng thể FcεRIα Immunoglobulin G (IgG) hoặc tự kháng thể kháng IgE được thấy ở một số bệnh nhân CIU. Các kháng thể IgG này phản ứng với IgE hoặc chuỗi α của FcεRI ở khoảng một phần ba số bệnh nhân bị CIU.8,9 Tế bào mast ở da cũng có thể được kích hoạt bởi các kích thích khác, bao gồm chất P và các peptide thần kinh khác, các thành phần bổ sung (bao gồm C3a, C4a , C5a), yếu tố tế bào gốc, chất cản quang, salicylat và thuốc chống viêm không steroid (NSAID). Những kích thích này hoạt động độc lập với FcεRI. Những thử nghiệm dược lý để ngăn chặn sự thoái hóa tế bào mast phần lớn đã không thành công. Do đó, thuốc kháng histamine đóng vai trò chủ yếu trong việc ngăn chặn tác dụng của histamine trong cơ thể sau khi được giải phóng khỏi tế bào mast.
3.4 Thụ thể histamine và tác dụng kết quả
Gen quy định thụ thể H1 đã được Yamashita và các đồng nghiệp nhân bản vào năm 199110 và được phát hiện là mã hóa cho thụ thể kết hợp G, axit amin 491. Nghiên cứu về thụ thể histamine H1 ở chuột làm rõ vai trò của histamine trong hệ thần kinh trung ương, bao gồm cả tầm quan trọng của nó trong việc duy trì sự tỉnh táo. Thụ thể H1 thể hiện mức độ linh hoạt cao trong đáp ứng với bệnh viêm và thuốc. Ví dụ, biểu hiện thụ thể H1 tăng lên được báo cáo ở niêm mạc mũi của bệnh nhân viêm mũi dị ứng.11
Tuy nhiên, cả hai phân nhóm thụ thể histamine H1 và H2 đều được biểu hiện ở da người.12 Q32.4 Ngứa do histamine gây ra và bùng phát phản xạ sợi trục, tuy nhiên, chỉ được trung gian bởi các thụ thể H1, trong khi cả hai thụ thể H1 và H2 đều tham gia vào quá trình giãn mạch do histamine gây ra và tăng cường tính thấm thành mạch. Q32.5 Histamine cũng điều hoà hoạt động của tế bào lympho T thông qua thụ thể H2. Histamine ức chế sự tăng sinh tế bào lympho T và gây độc tế bào của các tế bào đích dị sinh. Một cytokine được gọi là yếu tố ức chế histamine (HSF) được tạo ra bởi một quần thể tế bào T thông qua thụ thể H2. Các thụ thể H2 cũng có mặt trên các tế bào thành ở niêm mạc dạ dày và thuốc kháng histamine chọn lọc H2 được coi là thuốc hiệu quả để điều trị bệnh loét đường tiêu hoá và trào ngược dạ dày thực quản. Cimetidine, một chất đối kháng H2, đã được báo cáo là phương pháp điều trị thành công bệnh mụn cóc thông thường trong một số nghiên cứu nhãn mở nhỏ; cơ chế hoạt động được giả thuyết là do khả năng ngăn chặn sự ức chế của tế bào T qua trung gian histamine thông qua thụ thể H2. Tuy nhiên, các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên sau đó đã không chứng minh được sự cải thiện đáng kể của cimetidine so với giả dược trong điều trị mụn cóc thông thường.14–18
Các phân nhóm bổ sung của thụ thể histamine được mô tả gần đây và bao gồm các tự thụ thể H3, làm trung gian cho các hoạt động phản hồi âm tính lên quá trình sinh tổng hợp và giải phóng histamine, cũng như các thụ thể H4 được biểu hiện trên tế bào mast và tế bào thần kinh trên da người 6,19 Các thử nghiệm gần đây liên quan đến chuột loại bỏ thụ thể H4 và chất chủ vận chọn lọc thụ thể H4 đã giúp xác định vai trò của thụ thể H4 trong việc gây ngứa.
3.5 Cơ chế hoạt động của thuốc kháng histamine
Sự mô tả đầy đủ về phân tử của các thụ thể histamine đã mang lại sự hiểu biết mới về hoạt động của thuốc kháng histamine H1 và H2. Q32.6 Theo truyền thống được coi là chất đối kháng cạnh tranh của histamine, thuốc kháng histamine H1 và H2 hiện được công nhận là chất chủ vận nghịch đảo tại các vị trí thụ thể tương ứng và hoạt động bằng cách điều chỉnh giảm trạng thái kích hoạt cơ bản của các thụ thể histamine.19
Nồng độ histamine trong mô tăng cao đã được chứng minh ở vùng da bị tổn thương của bệnh nhân CIU. Hồng ban qua trung gian histamine, phù nề tại chỗ và phản xạ sợi trục xung quanh (phản ứng phát ban và mày đay) lần đầu tiên được mô tả trong công trình tiên phong của Lewis. Chuỗi thay đổi ba phần ở da này sau đó được gọi là “đáp ứng ba phần của Lewis”. Mặc dù các mày đay ở CIU biểu hiện là do trung gian histamine, nhưng đôi khi chúng liên quan nhiều hơn histamine. Điều này được hỗ trợ bởi các quan sát cho thấy có tới 50% bệnh nhân CIU không đáp ứng với thuốc kháng histamine và thời gian nổi mày đay ở CIU thường kéo dài hàng giờ chứ không phải vài phút. Histamine cũng có thể đóng một vai trò trong bệnh viêm mạch mày đay. Q32.4 Sự giải phóng histamine tại chỗ được biết là làm tăng tính thấm của các tĩnh mạch sau mao mạch, do đó cho phép sự thoát mạch của các tế bào viêm, bao gồm bạch cầu trung tính và bổ thể, sự hiện diện tại chỗ của chúng dẫn đến tổn thương thành mạch. Sau đó, sự thoát mạch của hồng cầu xảy ra ở những vị trí tổn thương thành mạch này.
4 Thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất
Thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất có thể được chia thành năm nhóm (Bảng 32.1). Cấu trúc của thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất, hydroxyzine, được thể hiện trong Hình 32.1. Q32.6 Thuốc kháng histamine H1 không liên kết đáng kể với các thụ thể histamine khác (H2–H4) và hoạt động như chất chủ vận nghịch đảo dẫn đến điều hòa giảm các thụ thể H1 ở trạng thái kích hoạt cơ bản. Thông tin chi tiết hơn về nhóm thuốc kháng histamine này được liệt kê trong Bảng 32.2.
Bảng 32.1 Các danh mục chính của thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất—Ví dụ đại diện | |
Loại | Thuốc kháng histamine đại diện |
Ethanolamine | Diphenhydramine |
Piperidine | Cyproheptadine |
Phenothiazine | Promethazine |
Alkylamine | Chlorpheniramine |
Piperazine | Hydroxyzine |
Về mặt nhóm, thuốc kháng histamine H1 thế hệ đầu tiên tương đối ưa mỡ và do đó dễ dàng vượt qua hàng rào máu não. Khi vào hệ thần kinh trung ương, những loại thuốc này gây an thần bằng cách ngăn chặn tác dụng kích thích của histamine trong não thông qua thụ thể H1. Thông thường, thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương trong khoảng 2 giờ và quá trình chuyển hóa của chúng xảy ra thông qua hệ thống cytochrome P 450 (CYP) ở gan, bao gồm CYP2D6. Do đó, thời gian bán hủy trong huyết tương của thuốc kháng histamine có thể bị kéo dài ở những bệnh nhân mắc bệnh gan hoặc ở những bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế CYP3A4, như Erythromycin hoặc Ketoconazole. Các đặc tính dược lý quan trọng của thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất được liệt kê trong Bảng 32.3. Tất cả các thuốc kháng histamine này đều ức chế phản ứng phát ban và mày đay do histamine gây ra trong vòng 1 đến 2 giờ sau khi uống, và tác dụng này có thể kéo dài hàng giờ sau khi uống. Do đó, vì thời gian bắt đầu tác dụng của chúng có thể mất một giờ hoặc hơn nên thuốc kháng histamine có tác dụng phòng ngừa phản ứng dị ứng tốt nhất hơn là thuốc cấp cứu cấp tính. Q32.7 Do chúng tồn tại trong các mô nên thời gian điều trị của thuốc kháng histamine đôi khi có thể nhiều hơn thời gian bán hủy trong huyết tương của chúng. Cơ sở dược động học của tác dụng này chưa được nghiên cứu đầy đủ, nhưng nó có thể giải thích tại sao một số bệnh nhân thấy một liều thuốc kháng histamine H1 duy nhất hàng ngày với thời gian bán hủy trong huyết tương ngắn lại đủ để kiểm soát triệu chứng kéo dài cả ngày.
Cyproheptadine có tính chất kháng serotonin (5- hydroxytryptamine, 5-HT]) cũng như kháng histamine H1. Mặc dù thuốc này được báo cáo là có hiệu quả hơn đối với chứng mày đay do lạnh và các chứng mày đay vật lý khác, nhưng lợi ích cụ thể này so với các thuốc kháng histamine khác vẫn chưa được chứng minh đầy đủ. Cyproheptadine cản trở chức năng vùng dưới đồi và do đó có thể gây tăng cảm giác thèm ăn và tăng cân. Những tác dụng phụ tương tự này đôi khi cũng có thể xảy ra trong quá trình sử dụng các thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất khác.
Bảng 32.2 Các loại thuốc được thảo luận trong chương này—Thuốc kháng histamine | ||||
Tên generic | Tên thương mại | Viên nén/ viên nang | Các công thức đặc biệt | Phạm vi liều dùng cho người lớn |
Thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất | ||||
Diphenhydramine | Benadryla | 25, 50 mg (Viên nhai 12,5 mg) | Cồn ngọt 12.5 mg/5 mL Syrup 6.25 mg/5 mL | 25–50 mg mỗi 6–8h |
Cyproheptadine | Periactin | 4 mg | 2 mg/5 mL | 4–8 mg mỗi 8–12 giờ |
Promethazine | Phenergan | 12.5, 25, 50 mg | 6,25 & 25 mg/5 mL (+ thuốc đạn) | 12.5–25 mg mỗi 6–8 giờ |
Chlorpheniramine | Chlor-Trimeton | 4 mg, 12 mg | Không | 4–8 mg 2 lần/ngày |
Hydroxyzine | Atarax, Vistarila | 10, 25, 50, 100 mg | Syrup 10 mg/5 mL Hỗn dịch 25 mg/5 mL | 12.5–25 mg mỗi 6–8 giờ |
Thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai | ||||
Loratadine | Claritin | 10 mg | Syrup 5 mg/5 mL | 10 mg 1 lần/ngày |
Cetirizine | Zyrtec | 5, 10 mg | Syrup 5 mg/5 mL | 10 mg 1 lần/ngày |
Levocetirizine | Xyzal | 5 mg | Dung dịch 0,5 mg/mL | 5 mg 1 lần/ngày |
Fexofenadine | Allegra | 60, 120, 180 mg | Không | 180 mg 1 lần/ngày hoặc 60 mg 2 lần/ngày |
Desloratadine | Clarinex | 5 mg | Syrup 2.5 mg/5 mL | 5 mg 1 lần/ngày |
Thuốc kháng histamine ba vòng | ||||
Doxepin | Sinequan | 10, 25, 50, 75 mg | Dung dịch 10 mg/mL | 10–75 mg trước khi ngủ |
Thuốc ức chế thoái hóa tế bào mast | ||||
Cromolyn sodium | Gastrochrome | 200 mg | Ống hít | 200 mg mỗi 6 giờ |
5 Thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai
Q32.6 Thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai, giống như các thuốc thế hệ thứ nhất, hoạt động như chất chủ vận nghịch đảo trên các thụ thể histamine. Đặc điểm quan trọng nhất của thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai là chỉ số điều trị cao (tỷ lệ liều độc tối thiểu trên liều điều trị tối thiểu). Q32.1 Xét về mặt nhóm, các thuốc kháng histamine này ít ưa mỡ và do đó không dễ dàng vượt qua hàng rào máu não, do đó làm giảm tỷ lệ mắc buồn ngủ và suy giảm nhận thức (Hộp 32.1). Q32.2 Hoạt động của chúng cũng có tính chọn lọc cao ở thụ thể H1, do đó chúng không liên kết đáng kể với các thụ thể cholinergic (muscarinic).
Năm loại thuốc kháng histamine H1 thế hệ hai có sẵn tại Hoa Kỳ: fexofenadine, loratadine, desloratadine, cetirizine và levocetirizine (Bảng 32.2). Nhìn chung, đặc điểm dược lý chung của thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai giống với đặc điểm dược lý của thế hệ thứ nhất. Nhiều loại thuốc kháng histamine thế hệ thứ hai có nguồn gốc từ tiền chất hoặc ở dạng chất chuyển hóa có hoạt tính. Q32.8 Ví dụ, Fexofenadine là thuốc có hoạt tính được chuyển đổi từ terfenadine, loại này không còn do gây độc cho tim. Cetirizine và levocetirizine là những chất chuyển hóa có hoạt tính có nguồn gốc từ hydroxyzine và desloratadine là chất chuyển hóa có hoạt tính của loratadine.
Bảng 32.3 Các khái niệm dược lý quan trọng—Thuốc kháng histamine | ||||||
Tên thuốc | HẤP THU VÀ SINH KHẢ DỤNG | ĐÀO THẢI | ||||
Nồng độ đỉnh (Giờ) | Tỷ lệ sinh khả dụng (%) | Liên kết protein (%) | Bán hủy (Giờ) | Chuyển hoá | Bài tiết | |
Thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất | ||||||
Diphenhydramine | 0.6-2.8 | 40-60 | 75-81 | 4 | Chuyển hóa đáng kể ở gan | Tối thiểu qua thận |
Cyproheptadine | 2-3 | - | 96-97 | 1-4 | Chuyển hóa lớn ở gan | 40% qua thận |
Promethazine | 2-3 | 25 | 93 | 10-14 | Chuyển hóa đáng kể ở gan | Chủ yếu qua thận |
Chlorpheniramine | 2-3.6 | 25-57 | 67-73 | 15-25 | Nguyên phát ở gan | Chủ yếu qua thận |
Hydroxyzine | 1.7-2.5 | 70 | 98 | 3 | Cetirizine là chất chuyển hóa có hoạt tính | Trên 70% qua thận |
Thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai | ||||||
Fexofenadine | 1-3 | 85 | 60-70 | 14.4 | Terfenadine là tiền chất | Phần lớn (80%) trong phân |
Loratadine | 0.7-1.3 | - | 97 | 2-14 | Desloratadine là chất chuyển hóa có hoạt tính | Không đáng kể trong nước tiểu |
Levocetirizine | 0.75 | 77 | 90 | 11 | Chất chuyển hóa có hoạt tính của cetirizine | Phần lớn qua thận |
Cetirizine | 0.5-15 | 70 | 93 | 8.3 | Levocetirizine là chất chuyển hóa có hoạt tính | Trên 70%qua thận |
Desloratadine | 2-3 | - | 82-87 | 19-34 | Desloratadine không có tương tác với enzym cytochrome P-450 | Tối thiểu qua thận |
Thuốc kháng histamine ba vòng | ||||||
Doxepin | 2 | 17-37 | 82 | 11-23 | Nordoxepin là chất chuyển hóa có hoạt tính; Chất CYP 2D6 | Không có trong nước tiểu |
Thuốc ức chế thoái hóa tế bào mast | ||||||
Cromolyn sodium | 0.25 | ~1% | - | 1-2 | Chuyển hoá chưa rõ | Bài tiết đáng kể qua thận |
Hộp 32.1 Thông tin rủi ro về thuốc—Thuốc kháng histamine | ||
Chống chỉ định | ||
Quá mẫn với hoạt chất, thành phần của công thức Trẻ sơ sinh hoặc trẻ sinh non (chỉ thế hệ 1) | Phụ nữ cho con bú (chỉ thế hệ 1) Bệnh tăng nhãn áp góc đóng (chỉ thế hệ 1) | |
Cảnh báo trên bao bì | ||
Tránh dùng promethazine ở trẻ < 2 tuổi suy hô hấp | ||
Cảnh báo & Phòng ngừa | ||
Thần kinh Hội chứng an thần ác tính (nguy cơ promethazine) Tim mạch Thận trọng với bệnh tim thiếu máu cục bộ, tăng huyết áp Trao đổi chất Thận trọng khi sử dụng ở bệnh nhân rối loạn chức năng | Tác dụng kháng cholinergic Hô hấp | |
Tình trạng kê đơn trong thai kỳ | ||
Xếp hạng truyền thống của FDA Hoa Kỳ — (C, DI) loại B thai kỳ; (DO, F, H) loại C thai kỳ | Xếp hạng mới hơn—(DI) tương thích; (C), (DO), (H) rủi ro thấp; (F) Rủi ro trung bình-cao |
5.1 Fexofenadine
Thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai này là chất chuyển hóa axit có hoạt tính của terfenadine và do đó không trải qua quá trình chuyển hóa ở gan. Nó được hấp thu dễ dàng qua đường uống với nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được sau 1 đến 3 giờ. Nhìn chung, 80% của một liều duy nhất được tìm thấy không đổi trong phân và 12% trong nước tiểu. Thời gian bán hủy là 11 đến 15 giờ.21 Một liều duy nhất từ 40 mg fexofenadine hoặc nhiều hơn sẽ ức chế phản ứng phát ban và mày đay gần 80%. Tác dụng này có thể kéo dài đến 12 giờ. Không có bằng chứng về sự dung nạp sau khi dùng fexofenadine lặp lại, và việc dùng đồng thời kháng sinh macrolide và thuốc chống nấm imidazole với thuốc kháng histamine này không có tác dụng phụ trên tim (Bảng 32.4).
5.2 Loratadine
Loratadine là một thuốc kháng histamine H1 ba vòng, chọn lọc, tác dụng kéo dài với tác dụng an thần và kháng cholinergic tối thiểu. Chất chuyển hóa chính của nó, descarboethoxy-loratadine (desloratadine), cũng là một thuốc kháng histamine có hoạt tính sinh học. Sau khi uống, nồng độ tối đa của loratadine trong huyết tương đạt được trong vòng 0,7 đến 1,3 giờ (2,5 giờ đối với desloratadine), thời gian bán hủy trung bình là 8 đến 11 giờ (17 giờ đối với desloratadine). Suy thận và gan, cũng như tuổi cao, dường như không có ảnh hưởng lớn đến dược động học của thuốc.23 Tuy nhiên, liều loratadine thấp hơn chính thức được khuyến cáo cho những bệnh nhân có bệnh thận hoặc gan mãn tính. Sau một liều duy nhất 10 mg, loratadine ức chế tác dụng gây mày đay của histamine trong da tới 12 giờ. Sự ức chế này có thể kéo dài hơn đáng kể sau khi dùng liều cao hơn.24 Liều loratadine lặp lại dường như không gây ra sự dung nạp (tachyphylaxis). Mặc dù loratadine có thể làm thay đổi kênh Kali của cơ tim nhưng không có bằng chứng lâm sàng cho thấy nó gây rối loạn nhịp tim. Sử dụng đồng thời các thuốc ảnh hưởng đến CYP3A4 (ví dụ, kháng sinh macrolide và thuốc chống nấm azole như ketoconazol và itraconazol) không tác dụng bất lợi đến quá trình chuyển hoá hoặc thông tin an toàn của loratadine
Bảng 32.4 Tương tác thuốc—Thuốc kháng histamine H1 | ||
Loại thuốc | Ví dụ | Bình luận |
Tương tác thuốc có nguy cơ tương đối cao | ||
Thuốc kháng histamine H1 ít an thần hơn | Terfenadine, astemizole (ngoài thị trường) | Tiền sử có nguy cơ xoắn đỉnh khi kết hợp với thuốc ức chế CYP3A4 mạnh |
Thuốc kháng cholinergic | Nhiều loại thuốc | Có thể ↑ khô miệng, táo bón, khô mắt, nguy cơ tăng nhãn áp góc hẹp TCAD; điều trị kháng cholinergic da liễu phổ biến nhất glycopyrollate, oxybutynin |
Thuốc an thần | Nhiều loại thuốc (đặc biệt diphenhydramine, hydroxyzine) | Khả năng an thần quá mức khi kết hợp (ethosuximide, thuốc ngủ, rượu, cannabinoids, thuốc kháng histamine H1 an thần, thuốc kháng cholinergic, thuốc chống trầm cảm, thuốc chống loạn thần, thuốc benzodiazepin, v.v.) |
Thuốc ức chế MAO | Nhiều | Có thể kéo dài tác dụng an thần và kháng cholinergic của thuốc kháng histamine |
Tương tác thuốc có nguy cơ thấp hơn | ||
Thuốc kháng histamine H1 ít an thần hơn | Levocetirizin, loratadin, desloratadin | Khả năng an thần ít hơn khi kết hợp (ethosuximide, thuốc ngủ, rượu, cannabinoids, thuốc kháng histamine H1 an thần, thuốc kháng cholinergic, thuốc chống trầm cảm, thuốc chống loạn thần, thuốc benzodiazepin, v.v.) |
5.3 Cetirizine
Cetirizine là chất chuyển hóa axit cacboxylic của hydroxyzine. Thuốc này trải qua sự biến đổi chuyển hoá tối thiểu và chủ yếu được bài tiết dưới dạng không đổi qua nước tiểu. Nó được hấp thu nhanh sau khi uống với nồng độ tối đa trong huyết tương đạt được sau 1 giờ. Thời gian bán hủy trong huyết tương của cetirizine là khoảng 8 giờ.26 Một liều cetirizine 10 mg đường uống duy nhất sẽ ngăn chặn mày đay do histamine gây ra trong vòng 20 đến 60 phút và tác dụng này có thể kéo dài đến 24 giờ.27 Nồng độ huyết tương ở trạng thái ổn định của cetirizine đạt được sau ba ngày dùng thuốc liên tục và hầu như không có sự dung nạp sau khi dùng liều lặp lại. Q32.9 Mặc dù cetirizine có hoạt tính kháng cholinergic tối thiểu nhưng tình trạng buồn ngủ đã được báo cáo ở 13,7% bệnh nhân sau một liều 10 mg, so với 6,3% ở những người dùng giả dược. Tác dụng gây buồn ngủ của thuốc này có thể còn lớn hơn khi dùng liều cao hơn. Nồng độ cetirizine trong huyết tương cao hơn ở những bệnh nhân có bệnh gan và thận mãn tính, do đó, nên giảm liều cetirizine (5 mg mỗi ngày) ở những bệnh nhân này. Không có tác dụng phụ về tim được báo cáo khi sử dụng cetirizine.
Ngoài hoạt tính đối kháng histamine, cetirizine còn có biểu hiện ức chế sự tích tụ bạch cầu ái toan trong các mô, bao gồm da. Việc sử dụng 10 mg cetirizine đường uống được chứng minh là làm giảm đáng kể sự di chuyển của bạch cầu ái toan in vitro và in vivo; tuy nhiên, sự liên quan về mặt lâm sàng của những quan sát này vẫn chưa rõ ràng.28,29
5.4 Desloratadine
Thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai này là chất chuyển hóa có hoạt tính của loratadine. Chỉ với 5 mg desloratadine mỗi ngày sẽ làm giảm ngứa và mày đay ở bệnh nhân CIU.30–32 Thuốc kháng histamine này có hiệu lực cao hơn loratadine khoảng 5 lần trong việc ngăn chặn mày đay do histamine. Desloratadine có ít hoặc không có hoạt tính kháng cholinergic, ít gây an thần và không gây độc cho tim, thậm chí ở liều gấp 9 lần liều khuyến cáo. Nó không được chuyển hóa bởi các enzyme CYP và do đó có thể được sử dụng an toàn với macrolide và imidazole/triazole.
5.5 Levocetirizine
Levocetirizine, R-enantiomer của cetirizine và chất chuyển hóa có hoạt tính chính của nó, là thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai mới nhất.33–35 Ở liều 5 mg, nó có hiệu lực cao hơn loratadine trong việc ngăn chặn mày đay do histamine ở những người tình nguyện khỏe mạnh, ít tác dụng an thần và kháng cholinergic.
6 Thuốc kháng histamine H1 ở phụ nữ có thai và cho con bú
Giống như tất cả các loại thuốc được cân nhắc trong thai kỳ, lợi ích của chúng đối với người mẹ, bao gồm cả những hậu quả tiêu cực liên quan đến việc ngừng sử dụng, phải được cân nhắc với những nguy cơ tiềm ẩn đối với thai nhi. Nhìn chung, không có bằng chứng nào ở người cho thấy thuốc kháng histamine gây quái thai.36,37 Trong số các thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ nhất, diphenhydramine và chlorpheniramine có nhiều bằng chứng nhất chứng minh tính an toàn của chúng trong thai kỳ và cả hai đều được phân loại là thuốc nhóm B dành cho phụ nữ mang thai36, 37 (Hộp 32.1) Thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai thuộc nhóm B cho phụ nữ mang thai bao gồm cetirizine và loratadine, mặc dù những loại thuốc mới hơn này chưa được sử dụng rộng rãi trong thai kỳ. Một số nguồn khuyến cáo
Diphenhydramine hoặc chlorpheniramine như là thuốc kháng histamine đầu tay trong thai kỳ,37– 39 trong khi những nguồn khác ủng hộ việc sử dụng cetirizine hoặc loratadine vì thông tin tác dụng phụ hạn chế của chúng.35 Doxepin, hydroxyzine, desloratadine và fexofenadine được phân loại C trong thai kỳ và, nói chung, nên tránh sử dụng trong thai kỳ nếu có các lựa chọn điều trị thay thế an toàn hơn.
Mặc dù không có nghiên cứu nào cho thấy thuốc kháng histamine có hại cho trẻ sơ sinh đang bú mẹ,38,39 các nhà sản xuất khuyến cáo nên thận trọng khi kê đơn các loại thuốc này trong tình huống này. Cetirizine và loratadine được bài tiết qua sữa mẹ với lượng thấp so với các thuốc kháng histamine khác và do đó có thể an toàn hơn cho các bà mẹ đang cho con bú.35,39,40
7 Thuốc kháng histamine H2
Q32.6 Thuốc kháng histamine H2 cũng có chức năng như chất chủ vận nghịch đảo chọn lọc trên thụ thể H2 và điều hòa hoạt động của các thụ thể này trên tế bào biểu mô, tế bào nội mô và tế bào thành của niêm mạc dạ dày. Thuốc kháng histamine H2 có liên quan đến sự thay đổi việc thu nhận tế bào, trình diện kháng nguyên và giải phóng chất trung gian gây viêm do sự hiện diện của thụ thể H2 trên tế bào lympho, bạch cầu trung tính, bạch cầu đơn nhân, tế bào mast và tế bào đuôi gai.
Q32.10 Thuốc kháng histamine H2 có sẵn ở Hoa Kỳ bao gồm cimetidine, ranitidine, famotidine và nizatidine. Những loại thuốc này đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương trong vòng 2 giờ sau khi uống. Thuốc kháng histamine H2 được chuyển hóa ở gan dưới 35% và tất cả đều được bài tiết qua thận.41,42 Thuốc kháng histamine H2 không vượt qua hàng rào máu não với lượng đáng kể và do đó có nguy cơ bị tác dụng phụ CNS thấp hơn. Tuy nhiên, ở nồng độ cao hơn trong huyết tương, thuốc kháng histamine H2 có thể gây lẫn lộn, buồn ngủ, nhức đầu và chóng mặt.42–46 Các tác dụng phụ tiềm ẩn khác nhưng ít phổ biến hơn của thuốc kháng histamine H2 bao gồm buồn nôn, nôn, tiêu chảy và táo bón.47–49 Cần thận trọng khi kê đơn thuốc kháng histamine H2 cho bệnh nhân mắc bệnh gan nặng và khuyến cáo giảm liều cho bệnh nhân mắc bệnh thận từ trung bình đến nặng46,49 (xem Bảng 32.3). Tác dụng phụ độc nhất ở cimetidine bao gồm tiết sữa ở phụ nữ và chứng vú to, giảm ham muốn tình dục và giảm số lượng tinh trùng ở nam giới.43,48 Những tác dụng phụ này của cimetidine xảy ra chủ yếu ở liều trên 1600 mg/ngày. Famotidine có nguy cơ kéo dài khoảng QTc và xoắn đỉnh ở bệnh nhân có bệnh thận nặng và nên thận trọng khi sử dụng ở nhóm đối tượng này.45,47 Do ức chế hệ thống CYP ở gan (đáng chú ý nhất là CYP3A4 và CYP2D6), thuốc kháng histamine H2 có thể dẫn đến nhiều tương tác thuốc và cần phải hỏi kỹ tiền sử dùng thuốc trước khi bắt đầu dùng thuốc kháng histamine H2 (Bảng 32.5). Cimetidine có nguy cơ tương tác thuốc cao nhất và có thể dẫn đến tăng nồng độ warfarin trong huyết thanh, thuốc chống loạn nhịp, thuốc chẹn β, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc và Metformin.48,49 Chống chỉ định sử dụng cimetidine ở những bệnh nhân dùng dofetilide vì tăng nguy cơ kéo dài QTc.50 Ranitidine cũng có thể làm tăng nồng độ thuốc chẹn β, warfarin và thuốc chẹn kênh canxi; tuy nhiên, vì nó ít gây ức chế CYP3A4/2D6 hơn cimetidine nên nó được ưa chuộng hơn trong những trường hợp có thể lo ngại về tương tác thuốc.43,44,49
Bảng 32.5 Tương tác thuốc—Thuốc kháng histamine H2 (Cimetidine) | ||
Danh mục thuốc | Ví dụ | Bình luận |
Chất CYP2D6 | Thuốc gây nghiện, thuốc chẹn β, TCAD, SSRI (fluoxetine, Paroxetine) | Chất ức chế CYP2D6 vừa phải, ↑ nồng độ trong huyết thanh và khả năng gây độc |
Chất CYP1A2 | Warfarin, Theophylline, melatonin | Chất ức chế CYP1A2 yếu, ↑ nồng độ trong huyết thanh và khả năng gây độc |
Chất CYP2C19 | Phenytoin, Esomeprazole, thalidomide | Chất ức chế CYP2C19 yếu, ↑ nồng độ trong huyết thanh và khả năng gây độc |
Chất CYP3A4 | Statins, Cyclosporine, benzodiazepines, CCB, warfarin, rifampin, dapsone | Chất ức chế CYP3A4 yếu, ↑ nồng độ trong huyết thanh và khả năng gây độc |
8 Dung nạp (giảm đáp ứng và kém nhạy cảm)
Sự phát triển của tình trạng giảm đáp ứng khi tiếp tục điều trị bằng thuốc kháng histamine thường được coi là một vấn đề. Tuy nhiên, bằng chứng rõ ràng về tình trạng giảm đáp ứng nhanh (tachyphylaxis) hoặc kém nhạy cảm (subsensitive) ở bệnh nhân dùng thuốc kháng histamine hàng ngày là không có căn cứ, và các đánh giá gần đây đã bỏ qua việc đề cập đến tình trạng này hoặc phủ nhận sự tồn tại của nó.51–53 Khi so sánh một số loại thuốc kháng histamine dùng hàng ngày trong 3 tuần, hydroxyzine (75 mg hàng ngày) dường như gây ra một số mức độ kém nhạy cảm, không chỉ với chính nó mà còn với các thuốc kháng histamine H1 khác.53
9 Doxepin uống và bôi tại chỗ
Q32.10 Doxepin là thuốc chống trầm cảm ba vòng có hoạt tính kháng histamine H1 và H2 mạnh. Thuốc chống trầm cảm ba vòng này được chứng minh là có hiệu lực hơn diphenhydramine 800 lần ở thụ thể histamine H1.54 Doxepin đường uống đã được sử dụng thành công trong điều trị CIU kháng trị, mày đay vật lý và ngứa liên quan đến các vấn đề toàn thân.55,56 Trong một nghiên cứu mù đôi, doxepin chứng tỏ hiệu quả hơn diphenhydramine trong điều trị CIU.55 Kem doxepin bôi tại chỗ cũng được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị ngứa ở bệnh nhân AD và lichen simplex mãn tính.56
An thần là tác dụng phụ phổ biến nhất với cả doxepin đường uống và tại chỗ, mặc dù tình trạng này dường như cải thiện hoặc giảm khi tiếp tục sử dụng.55–57 Doxepin đường uống được phân loại C ở phụ nữ mang thai; doxepin tại chỗ được phân loại B57 ở phụ nữ mang thai. Cả hai dạng doxepin đều bị chống chỉ định trong thời kỳ cho con bú. Tính an toàn và hiệu quả của doxepin ở trẻ em dưới 12 tuổi chưa được thiết lập. Thuốc này cũng nên được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân cao tuổi, những người có thể nhạy cảm hơn với tác dụng kháng cholinergic của nó. Không nên sử dụng doxepin đồng thời với các thuốc ức chế monoamine oxidase và tất cả các bệnh nhân bị trầm cảm tiềm ẩn phải được theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu của ý định tự tử khi bắt đầu điều trị. Doxepin có thể gây tăng nhãn áp đột ngột, do đó không nên sử dụng ở bệnh nhân có bệnh tăng nhãn áp.54–57 Mặc dù dạng uống của thuốc này có khả năng làm thay đổi chức năng cơ tim, nhưng nó đã được chứng minh là an toàn ở bệnh nhân trầm cảm có bệnh tim tiềm ẩn.58 Ngoài doxepin, Mirtazapine là thuốc chống trầm cảm bốn vòng có hoạt tính kháng histamine H1 đáng kể, nhưng cũng có khả năng liên kết với các thụ thể serotonin 5-HT2 và 5-HT3.59 Giống như doxepin, mirtazapine đã được chứng minh là có lợi cho tình trạng ngứa mãn tính trong một số trường hợp nhỏ.60
10 Liệu pháp kháng histamine cho mày đay mãn tính và phù mạch
Bất chấp những tiến bộ gần đây trong việc tìm hiểu nguyên nhân, bệnh lý miễn dịch và cơ sở phân tử của CIU, thuốc kháng histamine H1, tốt hơn là nhóm thế hệ thứ hai, vẫn là nền tảng của điều trị. Ngoài ra, nên tránh các yếu tố có thể làm tăng mày đay và ngứa ở bệnh nhân CIU (aspirin, NSAID, uống rượu, mặc quần áo chật hoặc vải len thô). Đối với những bệnh nhân bị mày đay vật lý hoặc cảm ứng (da vẽ nổi, mày đay muộn do áp lực, mày đay do cholinergic, mày đay do lạnh), thuốc kháng histamine cũng là phương pháp điều trị chính. Tuy nhiên, thuốc kháng histamine H1 có thể tỏ ra kém hiệu quả hơn trong việc ngăn ngừa các đợt phù mạch có thể xảy ra ở 40% bệnh nhân CIU.
Không phải là không phổ biến khi các bác sĩ kê đơn thuốc kháng histamine H1 thế hệ thứ hai với liều cao hơn cho những bệnh nhân CIU không đáp ứng với liều khuyến cáo. Việc này được hỗ trợ bởi các thử nghiệm lâm sàng cũng như một số hướng dẫn về điều trị CIU.61,62 Các thử nghiệm mù đôi, kiểm soát giả dược sử dụng liều fexofenadine gấp 4 lần liều khuyến cáo đối với CIU kháng trị cho thấy giảm đáng kể tình trạng ngứa cũng như phản ứng mày đay và phát ban do histamine.63,64 Desloratadine và loratadine cũng cho thấy giảm các triệu chứng CIU khi được kê đơn với liều gấp 4 lần liều khuyến cáo.65
Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là việc sử dụng liều kháng histamine cao hơn có thể dẫn đến tăng nồng độ trong huyết tương và có khả năng gây ra các tác dụng phụ không mong muốn như buồn ngủ và suy giảm chức năng nhận thức.
Đối với bệnh nhân CIU bị thiếu ngủ, thuốc kháng histamine H1 thế hệ đầu tiên được sử dụng để có tác dụng an thần. Tuy nhiên, các thuốc thế hệ đầu tiên này đã được chứng minh là làm giảm giấc ngủ chuyển động mắt nhanh và do đó có thể làm trầm trọng thêm tình trạng rối loạn giấc ngủ ở những bệnh nhân này.66 Một chiến lược ưa thích của các tác giả cho những bệnh nhân CIU đáp ứng kém với liều kháng histamine H1 thông thường là kê đơn fexofenadine (180–360 mg) vào buổi sáng và cetirizine (10–40 mg) vào buổi tối. Một số bệnh nhân bị lo âu và trầm cảm đáng kể liên quan đến CIU và phù mạch, và trong những trường hợp này, doxepin đường uống (10–75 mg) mỗi đêm có thể được coi là thuốc thay thế cho cetirizine. Liều doxepin ban đầu nên là 10 mg (bệnh nhân trẻ tuổi, đặc biệt là những người dung nạp tốt diphenhydramine, có thể bắt đầu ở liều 25 mg mỗi đêm), tăng dần đến khoảng liều đã đề cập trước đó khi cần thiết và dung nạp.
Việc sử dụng kết hợp thuốc kháng histamine H1 và H2 là phương pháp phổ biến đối với CIU kháng trị.5 Khi được kết hợp với hydroxyzine hoặc chlorpheniramine, cimetidine được chứng minh là làm giảm ngứa, cũng như phản ứng nổi mày đay ở bệnh nhân CIU.5 Tuy nhiên, trong các thử nghiệm này, cimetidine được cho rằng thực sự làm tăng nồng độ trong huyết tương của thuốc kháng histamine H1 bằng cách giảm quá trình chuyển hóa của chúng, thay vì ngăn chặn tác dụng của histamine lên thụ thể H2.67 Ngoài ra, sự biểu hiện của thụ thể H2 trên da đã được chứng minh là thấp, đặt ra câu hỏi về lý do nền tảng cho việc sử dụng thuốc kháng histamine H2 trong CIU.3 Một số báo cáo đánh giá hiệu quả của sự kết hợp thuốc kháng histamine H1 và H2 đối với CIU kháng trị là yếu.68,69 Do đó, các hướng dẫn hiện hành khuyến cáo sử dụng kết hợp thuốc kháng histamine H1 và H2 như là lựa chọn thứ ba cho những bệnh nhân đáp ứng kém với liều kháng histamine H1 gấp 4 lần được khuyến cáo.35 Ngoài mề đay, liệu pháp kết hợp kháng histamine H1 và H2 được báo cáo là có hiệu quả trong việc giảm đau bụng và các triệu chứng ở da ở bệnh nhân mắc bệnh tế bào mast toàn thân.70 Vì hoạt động ở cả thụ thể H1 và H2, việc sử dụng doxepin ở bệnh nhân CIU hoặc bệnh tế bào mast thường loại bỏ nhu cầu dùng thêm thuốc kháng histamine H2.
11 Liệu pháp kháng histamine cho viêm da cơ địa dị ứng (AD)
Q32.11 Hiệu quả của thuốc kháng histamine H1 như là thuốc chống ngứa trong AD là không rõ ràng. Một phân tích tổng hợp của Klein và các đồng nghiệp kết luận 71 rằng thuốc kháng histamine H1 thế hệ đầu tiên có thể có lợi trong AD vì tác dụng gây buồn ngủ chứ không phải là kháng histamine. Mặc dù có một số thử nghiệm ngẫu nhiên mù đôi, có đối chứng giả dược, vẫn thiếu bằng chứng ủng hộ việc sử dụng thuốc kháng histamine trong AD.71 Tuy nhiên, một nghiên cứu đã chứng minh giảm ngứa ở bệnh nhân AD được điều trị với liều cetirizine gấp 4 lần liều khuyến cáo, nhưng việc giảm thang điểm ngứa là do tác dụng an thần của cetirizine.72 Do kết quả của những nghiên cứu này và các nghiên cứu khác, tuyên bố đồng thuận năm 2014 của Viện Da liễu Hoa Kỳ không khuyến khích việc sử dụng thuốc kháng histamine thường xuyên trong AD.73 Tuy nhiên, thuốc kháng histamine H1 có thể có lợi cho bệnh nhân AD có các biểu hiện dị ứng khác, chẳng hạn như viêm mũi dị ứng hoặc hen suyễn do dị ứng.73