Quá trình phẫu thuật hút mỡ diễn ra như thế nào?
Nguồn: Atlas Kỹ thuật hút mỡ
Chủ biên: Jin Young Park
Biên dịch: Ths. Bs Đinh Công Phúc
1 Hút mỡ mặt
Hút mỡ mặt có thể chia thành hai khu vực: má và vùng cằm. Lượng mỡ ở mặt và độ đàn hồi của da là yếu tố quyết định phẫu thuật quan trọng nhất đối với hút mỡ vùng mặt. Kiến thức và hiểu biết về từng vùng của vùng mặt là bắt buộc.Có một số trường hợp trong đó phẫu thuật không phù hợp, ngay cả khi bệnh nhân muốn hút mỡ mặt. Điều này có thể được kiểm tra bằng cách véo mỡ mặt bằng ngón tay. Dường như có một lượng lớn mỡ ở vùng mặt, nhưng lượng mỡ thực tế không lớn vì da mất độ đàn hồi. Điều này thường xảy ra trong trường hợp hút mỡ mặt không phù hợp.
Thiết bị cần thiết cho hút mỡ vùng mặt
Hình 3.1 Các thiết bị cần thiết cho hút mỡ vùng mặt
Laser diode 980 nm (laser Belo-dy)
Thiết bị siêu âm phân giải mỡ (Ultra-Z)
Thiết bị hút mỡ (EVA)
Hút mỡ bằng tay và ống tiêm mỡ
Bơm tiêm dung dịch tumescent
Chụp ảnh trước khi phẫu thuật
Hình 3.2 và 3.3 cho thấy hình ảnh khuôn mặt của bệnh nhân chụp nghiêng ở góc 45° và đầu bệnh nhân bị hạ thấp. Các cạnh của vùng mặt có thể nhìn thấy rõ hơn ở các góc 45° và 90°.
1.1 Thiết kế trước khi phẫu thuật
Hình 3.4; thiết kế cho thấy:
1. Để hút mỡ vùng má bên cạnh rãnh mũi-má.
2. Vùng dưới má và vùng cằm là mặt hút chính
3 Dấu gạch chéo dưới má cho thấy một vùng có độ bám dính cao và điều này đã đánh dấu là không thực hiện hút mỡ.
4. Một lượng lớn mỡ đã tìm thấy ở vùng từ phần dưới của má đến má sâu hơn. Vùng này được đánh dấu bằng một dấu tròn nhỏ.
1.2 Phương pháp gây mê
Ban đầu, tiêm 0,4 ml ket-amine và sau đó là 6-7 ml propo-fol. Sau giai đoạn này, tôi sử dụng thuốc liên tục, cứ tiêm 4 ml trong 4 phút.
Số liều thuốc trên chỉ định liều trung bình. Trong một số trường hợp, tôi tiêm 4 ml Propofol trong 2 phút hoặc tiêm thêm 3->4 lần ketamine trong suốt quá trình phẫu thuật với 0,4 ml/lần.
Trong một số trường hợp, tôi đặt bệnh nhân chỉ cần gây tê bằng chích dung dịch tumescent trong quá trình hút mỡ, và bệnh nhân tỉnh táo hoàn toàn trong quá trình hút mỡ.
Vô trùng và chuẩn bị cho phẫu thuật
Vô trùng mặt bằng cách sử dụng potadine và kết thúc vô trùng bằng trải săng mổ vô trùng. Bọc tóc với săng mổ vô trùng.
Tôi thực hiện thiết kế vùng cần hút mỡ ở mặt bằng cách sử dụng bút dầu để đánh dấu và sau đó lau sạch mặt sau khi phẫu thuật (Hình 3.5 và 3.6).
Sắp xếp các công cụ phẫu thuật
Chuẩn bị thêm dung dịch vô trùng potadine và săng vô trùng. Sắp xếp gọn gàng các dụng cụ sẽ sử dụng trong phẫu thuật (Hình 3.7).
Thành phần của dung dịch Tumescent
Nước muối sinh lí 1L + epineph-rine 1,5->2A + 30 ml Lidocaine 2% + bicarbonate 10 ml
Dưới cằm: tiêm khoảng 200 ml dung dịch tumescent
Má dưới: tiêm khoảng 200 ml dung dịch tumescent
Dưới cằm + má dưới: tiêm khoảng 300 - 400 ml dung dịch tumescent
Phương pháp tiêm dung dịch Tumescent
Phương pháp tiêm bằng tay
Phương pháp tiêm bằng tay: dùng kim tiêm có khóa 10ml nối 1 đầu trong kim 3 chạc (Hình 3.8). Phương pháp này có thể dễ dàng tiêm 200-400 ml dung dịch tumescent, một lượng khá lớn (Hình 3.9).
Tác giả thường sử dụng phương pháp tiêm thủ công khi thực hiện hút mỡ vùng mặt.
Tiêm qua máy bơm
Khi máy bơm đặt ở dưới cùng của bàn phẫu thuật, có thể sử dụng phòng phẫu thuật trong điều kiện sạch sẽ (Hình 3.10). Đây là vị trí yêu thích của tác giả.
Khi tiến hành hút mỡ vùng mặt cùng với hút mỡ cánh tay hoặc bụng, thời gian có thể giảm xuống nếu bạn tiêm dung dịch tumescent bằng cách sử dụng máy bơm tiêm.
Có thể thực hiện tiêm dung dịch nhanh và chính xác vì nó tốt hơn về tốc độ và áp lực tiêm.
Điều này cho phép dung dịch tumescent thấm vào lớp mỡ đồng đều hơn.
Chuẩn bị dung dịch Tumes-cent
Bảo quản dung dịch Tumes-cent đã đánh dấu
Tôi khuyên bạn nên giữ các dung dịch tumescent đã đánh dấu ở 1 vị trí cùng nhau và sẽ vứt bỏ chúng sau khi kết thúc phẫu thuật.
Lý do làm điều này là lỡ 1 điều dưỡng có thể lấy nhầm để sử dụng cho việc khác, điều này hiếm khi xảy ra. Ví dụ, các dung dịch tiêm như epinephrine và lincomy-cin trông tương tự nhau. Sử dụng các dung dịch tiêm khác nhau có thể xảy ra do nhầm lẫn. Hơn nữa, họ có thể nhầm lẫn dung dịch muối (không dùng dung dịch tumescent để tiêm cho bệnh nhân).
Khi bạn giữ các dung dịch tiêm này cùng với nhau ở 1 nơi, bạn có thể tránh nhầm lẫn khi sử dụng các dung dịch tiêm khác nhau bằng cách kiểm tra các dung dịch tiêm đã sử dụng (Hình 3.11).
Nhiệt độ của dung dịchTu-mescent
Nhiệt độ Dung dịch Tumes-cent lớn hơn 37°C có thể làm giảm đau và mang lại sự thoải mái cho bệnh nhân
Một số người nghĩ không chính xác rằng dung dịch tumes-cent lạnh có thể cầm máu tốt hơn dung dịch tumescent ấm. Tuy nhiên, rõ ràng là sử dụng dung dịch tumescent ấm thực sự tốt hơn cho phẫu thuật.
Có thể sử dụng tủ sưởi để làm ấm dung dịch tumescent hoặc bạn có thể giữ bình chứa dung dịch tumescent trong nước ấm10 phút trước khi phẫu thuật (Hình 3.12).
Cũng rất tốt để làm ấm pota-dine với nhau để sử dụng vô trùng cho bệnh nhân lúc phẫu thuật.
Lỗ để tiêm dung dịch Tu-mescent
Mỡ có thể hút ra qua một lỗ được chọc qua da, mà không cần rạch bằng dùi Awl (Hình 3.13). Trong trường hợp này, không cần thiết phải khâu vết thương và không có sẹo.
Khi sử dụng máy hút rung như EVA, thực hiện vết rạch có kích thước 2 mm bằng cách sử dụng dùi Awl.
Vị trí của các lỗ: một lỗ ở mỗi bên ở dưới đường hàm dưới.
Một bên dưới ở giữa hàm
Một xung quanh sau mai tócMột xung quanh rãnh mũi-má
1.3 Gây tê vị trí rạch
Tôi sử dụng dung dịch tumescent cho gây tê tại chỗ tại vùng vết mổ bằng ống tiêm 10ml (Hình 3.14).
Tạo lỗ bằng Awl. Hình 3.15 cho thấy cách sử dụng Awl để tạo lỗ trên da.
1.4 Chích dung dịch Tumes-cent
Chích dung dịch tumescent bắt đầu từ lớp mỡ sâu nhất và sau đó dần dần chuyển sang lớp mỡ nông hơn.
Điều quan trọng là chích dung dịch tumescent càng gần da càng tốt trong việc hút mỡ ở mặt vì không dễ dàng loại bỏ mỡ màu vàng mà không gây chảy máu, hút mỡ vùng mặt xảy ra chảy máu thường xuyên hơn so với hút mỡ các vùng khác của cơ thể.
Do đó, cần phải giảm lượng máu bằng cách tiêm đủ dung dịch tumescent ở lớp mỡ gần da nơi có đám rối mạch máu dưới da phong phú.
Trong vùng dưới cằm, cần phải đưa ống chích vào càng sâu càng tốt để tiêm dung dịch tumes-cent vào.
Hút mỡ ở vùng dưới cằm là phần dễ nhất của khuôn mặt, nhưng hiệu quả tốt của hút mỡ có thể đạt được khi loại bỏ càng nhiều mỡ càng tốt.
Nên tiêm dung dịch tumescent qua tất cả các lỗ tiêm theo nhiều hướng khác nhau (Hình 3.16 và 3.17).
1.5 Thiết bị siêu âm phân giải mỡ
Ultra-Z là thiết bị rất tốt để hút mỡ vùng mặt (Hình. 3.18 và 3.19). Phân giải mỡ bằng siêu âm cho phép hút mỡ vùng mặt được dễ dàng hơn.
Hơn nữa, nếu có một khối mỡ tăng sinh sau ghép mỡ, sẽ rất hiệu quả khi dùng Ultra-Z để phân giải khối u mỡ và hút mỡ ra.
Đôi khi, một kết quả tốt có thể đạt được nếu khối mỡ được phân giải bằng Ultra-Z mà không cần hút.
Khi thực hiện hút mỡ mặt, thời gian điều trị Ultra-Z cho dưới cằm là khoảng 3 phút và 5 phút cho má.
1.6 Hút mỡ
Trong trường hợp hút mỡ vùng mặt, nên tránh hút quá nhiều ở một lỗ và nên hút mỡ qua nhiều lỗ để giảm không đều của da và thời gian phẫu thuật (Hình 3.20).
Khi sử dụng một ống hút quá nhỏ để hút mỡ, các giọt mỡ có thể bị kẹt trong ống hút. Do đó, tác giả sử dụng ống cannula có chiều rộng 1.6 mm.
Kích thước Cannula (Hình. 3.21, 3.22, 3.23 và 3.24):
Ống hút EVA: rộng 2,5 mm × chiều dài20 cm
Ống hút bằng tay: rộng 1,6 mm × chiều dài 12 cm
Ống chích dung dịch tumescent: rộng 1,2 mm × dài 10 cm
1.7 Laser nâng cơ Belody
Đây là một laser diode 980nm. Nó không phải là một phạm vi chiều dài sóng phân giải mỡ, nó là một tia laser để nâng cơ và săn chắc da bằng cách kích thích Collagen ở lớp hạ bì.
Sau khi hút mỡ thì nên sử dụng la-ser Belody để làm cho da săn chắc hơn (Hình 3.25).
1.8 Ngay sau khi phẫu thuật và băng vết thương
Sau khi hút mỡ, không có vết bầm, nhưng nhìn thấy sưng lên do tiêm dung dịch tumescent (Hình 3.26).
Có thể có dung dịch chảy ra qua các lỗ vào ngày phẫu thuật; do đó, nên đặt gạc trên các lỗ và dùng một dải băng ép để băng đè lên (Hình 3.27).
1.9 Quản lý sau phẫu thuật
Băng ép
Nếu băng ép với lực quá mạnh, có thể có vết thâm tím ở mô bên dưới dải băng. Do đó, nên tránh băng ép chặt.
Đặt băng ép cho 12 h sau khi phẫu thuật. Sau thời gian này thì băng ít hơn
Nên băng ép 12 giờ mỗi ngày (Hình 3.28).
Băng ép mạnh và kéo dài hơn 24 h có thể làm hỏng da.
Theo dõi những ngày sau khi phẫu thuật
Băng ép: ngày sau khi phẫu thuật
Khâu da: trong hầu hết các trường hợp, không cần khâu. Tuy nhiên, có thể khâu da tai các lỗ đâm da bằng chỉ khâu nylon 7/0, nó được khâu lại sau 5 ngày.
Theo dõi qua siêu âm bằng siêu âm mặt một hoặc hai lần/tuần, bắt đầu một tuần sau khi phẫu thuật.
Có thể điều trị săn chắc da thêm 2 tuần sau khi phẫu thuật.
Điều trị bằng tần số vô tuyến (RF) không áp dụng cho mặt. Nhiệt độ sâu của RF có thể làm giảm sự phục hồi của vùng bị viêm do thực hiện hút mỡ sau khi phẫu thuật.
Lượng mỡ hút
Trong trường hợp mỡ ở vùng mặt, hút đi một lượng mỡ nhỏ 20 ml có thể cải thiện kết quả thẩm mỹ khá tốt.
Một số bác sĩ đầu tiên hút mỡ ở mặt, đã nghi ngờ liệu nó có thể có tác dụng hay không nếu hútmỡ ra dưới 20 ml. Tuy nhiên, số lượng mỡ này có thể có hiệu quả thẩm mỹ.
Khi hút mỡ vùng mặt hơn 50 ml, chúng tôi cho rằng hút ra khỏi mặt một lượng lớn mỡ. Bệnh nhân có thể rất hài lòng với điều này.
Hút mỡ ra ở mặt hơn 100 ml là một lượng rất lớn.
1.10 Biến chứng
Không hài lòng vì hút chưa hết mỡ
Tụ dịch và tụ máu hiếm khi xảy ra
Bầm tím có thể xảy ra
Tổn thương dây thần kinh
VII hiếm khi xảy ra:
Không đối xứng
Để lại sẹo tại chỗ đâm cannula qua da
Da chảy xệ có thể xảy ra sau phẫu thuật
Viêm
Bề mặt da không đều có thể gặp phải do mỡ không được hút theo nhiều hướng
Trường hợp trước và sau khi phẫu thuật
Trường hợp 1. Một phụ nữ 45 tuổi, hút mỡ vùng má và dưới cằm, khoảng 45 ml (Hình 3.29, 3.30, 3.31, 3.32 và 3.33).
Chúng ta có thể thấy rằng da đã được nâng lên khi so sánh hình ảnh trước và sau khi phẫu thuật. Vùng mỡ dưới cằm cũng đã biến mất.
Dùng laser Belody để nâng cơ mặt và săn chắc da là rất tốt. Nếu da bị chảy xệ sau khi hút mỡ, thì có thể thực hiện thao tác nâng cơ mặt một cách chính xác.
Trường hợp 2. Một người 45 tuổi, hút mỡ vùng má và dưới cằm, khoảng 27 ml, (Hình. 3.34 và 3.35)
.Đây là khuôn mặt bệnh nhân ngày sau khi phẫu thuật hút mỡ. Không có vết bầm tím, nhưng có tình trạng sưng nề. Sưng nề tăng lên sau đó. Xuất hiện vùng da bị cứng sau khi phẫu thuật 10 ngày. Điều này cần phải giải thích cho bệnh nhân và họ cần điều trị.
Mức độ sưng nề này vào ngày sau khi phẫu thuật không ảnh hưởng tiêu cực gì đến cuộc sống hàng ngày của bệnh nhân.
Kết quả hút mỡ vùng mặt sẽ thấy rõ sau 2 tháng khi so sánh hình ảnh trước và sau khi phẫu thuật.
Trường hợp 3. Một phụ nữ 27 tuổi, hút mỡ vùng má và dưới cằm, khoảng 60ml (Hình. 3.36 và 3.37).
Khi hút ra khoảng 60 ml mỡ có ng-hĩa là một lượng lớn mỡ được loại bỏ khỏi vùng mặt. Với lượng hút này, có thể thấy rằng khuôn mặt nhỏ hơn, thậm chí cả ngày sau khi phẫu thuật.
Trường hợp 4. Một phụ nữ 24 tuổi, hút mỡ vùng má và dưới cằm, khoảng 15 ml (Hình. 3.38 và 3.39).Một kết quả khả quan có thể đạt được ngay cả khi hút mỡ dưới 20 ml.
Trường hợp 5. Một phụ nữ 23 tuổi, hút mỡ vùng má và dưới cằm, khoảng 35 ml (Hình 3.40, 3.41 và 3.42).
Khi hút ra khoảng 35 ml mỡ ở vùng mặt của cô ấy, đây là một lượng khá lớn cho khuôn mặt cô ấy. Bệnh nhân hài lòng với kết quả này.
Trường hợp 6. Một phụ nữ 37 tuổi, hút mỡ vùng má và dưới cằm, khoảng 25 ml (Hình. 3.43 và 3.44).
Trong một số trường hợp, bệnh nhân phàn nàn về khuôn mặt của họ trông quá gầy sau khi phẫu thuật, như thực sự bệnh nhân này đã làm. Trong trường hợp hút mỡ mặt, nên đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhan bằng cách nhìn trực diện vào mặ bệnh nhân thay vì chỉ nhìn vào hình ảnh trước sau phẫu thuật
2 Hút mỡ cánh tay và nách
Cánh tay là vùng tốt nhất nơi đẹp nhất có thể thực hiện hút mỡ chính xác và bệnh nhân có thể giữ được kết quả trong một thời gian sau khi trải qua phẫu thuật hút mỡ. Bức ảnh này cho thấy một bệnh nhân tôi đã hút mỡ vùng cánh tay, cô ta mặc váy cưới. Ở đây, tôi giải thích về việc hút mỡ cánh tay dựa trên kinh nghiệm của tôi khi nghĩ về một cô dâu có nụ cười hạnh phúc trong chiếc váy cưới (Hình 4.1).
Hút mỡ cánh tay có thể cho kết quả khả quan nhất, nhưng nó cũng có thể cho kết quả không đạt yêu cầu nhất. Hiện nay, vẫn chưa có nhiều phòng khám tiến hành hút mỡ vòng quanh 360° ở cánh tay và cùng một lúc hút mỡ phía trước và phía sau nách. Khi thực hiện hút mỡ vừa đủ quanh cánh tay 360°, nó có thể mang lại kết quả rất khả quan so với các vùng khác.Hình 4.2 và 4.3 cho thấy trước và sau khi phẫu thuật ở một người mẫu đã trải qua hút mỡ cánh tay tại phòng khám của tôi.
Điểm mấu chốt của việc hài lòng hút mỡ cánh tay là không được hút mỡ ở mặt ngoài lòng bàn tay, nhưng vùng này có thể hút mỡ.
Điều này có nghĩa là tiến hành hút mỡ quanh cánh tay 360° và cùng một lúc loại bỏ mỡ từ phía trước và phía sau nách và từ dưới nách.
Tôi giải thích rất chi tiết về phương pháp MDMP (đa hướng, đa vị trí) mà tác giả sử dụng khi thực hiện hút mỡ 360°.
Khi so sánh hình ảnh 4.4 và 4.5, có thể thấy rõ sự khác biệt về mức độ hài lòng.
Sáu trong số bảy nhân viên làm việc trong bộ phận tư vấn ở phòng khám của tôi đã được hút mỡ cánh tay miễn phí.
Nếu người đọc muốn xem kết quả hút mỡ cánh tay do tác giả thực hiện, họ có thể chỉ cần bước vào phòng khám của tôi và xem cánh tay của những nhân viên ở đó.
Tôi rất tự hào về kỹ thuật hút mỡ cánh tay của mình mà các thành viên trong gia đình tôi cũng đã trải qua quá trình hút mỡ cánh tay do tôi thực hiện.
Tôi hy vọng rằng tất cả các bác sĩ tiến hành hút mỡ đều có sự tự tin để mang lại kết quả tốt cho bệnh nhân bằng cách học hỏi từ tác giả đã có 16 năm kinh nghiệm.
Có một số phương pháp để thực hiện hút mỡ cánh tay thành công, và tôi muốn nói về những phương pháp này trong chương này.
Cá nhân tôi thích vẽ những bức tranh về cơ thể người. Đây là một bức tranh được vẽ vào năm 2012 với phấn màu (Hình 4.6). Tôi luôn giữ một cơ thể đẹp của người phụ nữ trong tâm trí của tôi bằng cách vẽ tranh.
Chụp ảnh
Chụp ảnh trước và sau phẫu thuật ở nhiều góc độ (Hình 4.7).
Nên chụp hình ảnh từ các góc độ cụ thể. Điều này giúp dễ dàng so sánh các bức ảnh đã chụp trước và sau khi phẫu thuật.
Vùng cánh tay và các bộ phận khác nên đưa vào độ thay đổi từng vị trí ảnh để có thể nhìn thấy rõ các vùng phẫu thuật theo các vị trí khác nhau.
Tôi có một máy ảnh DSLR, Canon 6D, nhưng tôi sử dụng ba máy ảnh không gương lật cho các bức ảnh trước khi phẫu thuật.
Tôi sử dụng chúng vì nó thuận tiện để đặt độ sáng của máy ảnh và kích thước của hình ảnh thay vì xem xét các góc hoặc độ sâu.
Tốt nhất là có một phòng chụp ảnh cụ thể.
Mỗi bệnh nhân có hình dạng cánh tay khác nhau:
Cơ nhị đầu phát triển và tay ít mỡ
Cơ nhị đầu cánh tay phát triển và một lượng lớn mỡ
Cơ nhị đầu ít và mỡ nhiều
Cơ nhị đầu ít và mỡ ít
Điều quan trọng là phải thông báo cho bệnh nhân về loại hình cánh tay họ có và đường cánh tay dự kiến, số lượng mỡ hút và giảm chu vi cánh tay sau khi quan sát cánh tay bệnh nhân.
Nếu có kinh nghiệm trong việc hút mỡ, bác sĩ phẫu thuật có thể ước tính chu vi cánh tay chỉ bằng quan sát bằng mắt thay vì sử dụng thước dây.
Để có được chu vi ngay bằng cách đo mắt, tốt nhất là tập thói quen ước tính chu vi cánh tay và sau đó kiểm tra nó bằng thước dây.
Thiết kế
Thiết kế trước phẫu thuật
Điều cơ bản của thiết kế cánh tay có tính đến hình dạng cánh tay và đường cánh tay. Nó cũng quan trọng để thiết kế cánh tay phản ánh sự chuyển động của mỡ dựa trên chuyển động của cánh tay.
Nên thực hiện thiết kế 360°, vì tiến hành việc hút mỡ cánh tay bằng cách loại bỏ mỡ, bằng cách xoay cánh tay 360°.
Thiết kế mà không bao gồmcác cạnh cánh tay là không tốt, vì đây có thể là lý do lớn nhất tại sao các phần bên của cánh tay phình ra, do hút mỡ chưa đủ.
Cách đây 15 năm, tác giả cũng từng gặp khó khăn với việc thiết kế, mất hơn 5 phút. Bây giờ, tôi thiết kế vùng cánh tay bằng phương pháp của riêng mình và chỉ mất 2 phút. Vì vậy, tôi khuyên người đọc nên thiết lập các phương pháp thiết kế của riêng họ. Nghiên cứu các thiết kế khác nhau bằng cách nhìn vào hình ảnh của các thiết kế cánh tay của tôi (Hình 4.8 và 4.9).
Đánh dấu vùng trước nách. Sau đó, vẽ một đường đi qua phía trước của bắp tay đến khuỷu tay.
Khi nâng cánh tay lên 90°, mỡ dưới bắp tay của cánh tay sẽ sa xuống, đánh dấu ranh giới vùng mỡ này. Sử dụng dấu gạch chéo để đánh dấu.Ranh giới của vùng này trở nên nhỏ hơn khi bệnh nhân nằm trong lúc phẫu thuật. Cần chú ý không nên cố hút quá nhiều mỡ, làm cho phần này quá mỏng, bằng cách đánh dấu phần này trước.
Trong trường hợp mỡ ở bên trong khuỷu tay, vẽ thiết kế vùng này, vẽ vùng cần hút lớn hơn phần cẳng tay. Đây là mục đích để hút vừa đủ trong vùng bên trong của khuỷu tay.
Dấu chấm màu đỏ cho biết vị trí rạch da ở nách. Dấu chấm màu đỏ này chỉ được đánh dấu để dễ hiểu và không được đánh dấu chấm màu đỏ này khi tạo ra một thiết kế thực tế.
Điều này cho thấy phần khuỷu đã nổi rõ lên hơn sau khi hút mỡ (Hình 4.10). Có thể xảy ra tình trạng là vùng cần thiết để thiết kế thì vẫn chưa vẽ ở phần bên trong khuỷu tay, dẫn đến sẽ hút mỡ chưa hết ở vùng này.
Đường vẽ thiết kế nên bắt đầu từ đường viền áo ngực bên dưới sau nách. Đường vẽ thiết kế từ đây chạy xuống dọc theo phần trên và phần ngoài của cơ nhị đầu cánh tay đến khuỷu tay.
Đánh dấu vùng cơ delta bằng một vòng tròn. Khi ranh giới giữa cơ delta và cơ tam đầu cánh tay đã nổi rõ lên, đánh dấu vùng này bằng những dấu gạch chéo.
Sau đó, khi hút mỡ nên hút ít mỡ ở vùng ranh giới này hơn so với vùng cơ delta và vùng cơ tam đầu cánh tay, mặc dù vùng ranh giới có nhiều mỡ hơn các vùng khác.
Nói cách khác, cần loại bỏ nhiều mỡ hơn ở vùng cơ delta và vùng cơ tam đầu cánh tay so với vùng ranh giới. Hút làm sao mà mặt ngoài cánh tay sẽ tạo nên đường thẳng, mà không làm cho các cơ phình ra nhấp nhô.
Bệnh nhân có cơ delta và cơ tam đầu cẳng tay phát triển thì cần phải thông báo cho bệnh nhân biết rằng hai cơ này có thể phình ra sau khi hút mỡ. May mắn thay, khi số người muốn có cánh tay khỏe mạnh với cơ bắp rõ hơn ngày càng tăng, họ dễ dàng đồng ý với
phẫu thuật khi tôi giải thích trước về điều này.
Điều này cho thấy khi hút chưa hết mỡ vùng ngoài của cánh tay, nhìn cánh tay rất ít đẹp. Cánh tay của hai bệnh nhân này đã cải thiện bằng cách phẫu thuật hút mỡ lại (Hình. 4.11 và 4.12).
Khi xoay cánh tay, có thể nhìn thấy các chuyển động khác nhau của mỡ và cơ ở các vị trí khác nhau (Hình 4.13). Hãy xem xét những điều này khi vễ đánh dấu để hút mỡ.
Vùng có dấu gạch chéo màu xanh, nếu hút mỡ vùng này thì khi cơ tam đầu cánh tay xoay sẽ làm cho vùng này lõm xuống gây mất thẩm mỹ. Vì vậy nên hút ít mỡ hơn ở đây.
Vùng có vòng tròn đã đánh dấu ở phần trên là một phần mà mỡ sẽ nổi cao lên hơn khi xoay vị trí của cánh tay. Vùng mỡ đẩy lên này cần phải loại bỏ khi xoay cánh tay, làm cho đường cánh tay trông tự nhiên hơn khi xoay cánh tay sau khi phẫu thuật.
Thiết kế cho bệnh nhân nhiều mỡ
Khám qua siêu âm
Trong trường hợp vùng cánh tay, tôi thường không thực hiện kiểm tra qua siêu âm (USG) khi chẩn đoán bệnh nhân trước khi phẫu thuật. Tốt hơn là kiểm tra cánh tay bệnh nhân bằng mắt thường và dùng các ngón tay để sờ nắn tìm ra tỷ lệ gần đúng của lớp mỡ và cơ, độ đàn hồi của da, và kết quả mong đợi và hình dáng của cánh tay.
Có thể sử dụng USG để kiểm tra sau phẫu thuật khi xét nghiệm huyết thanh và khi xảy ra viêm (viêm mô tế bào), để kiểm tra quy trình, chẩn đoán và chỉ định điều trị (Hình 4.15 và 4.16).
Về hình ảnh USG ở mặt sau của cánh tay, nếu bệnh nhân nặng 60 kg và lượng mỡ sẽ loại bỏ ít hơn 1000 ml, thì độ dày lớp mỡ trên USG thường dưới 2 cm.
Hình ảnh USG trong hình 4.17 cho thấy các vùng cơ tam đầu cánh tay và cơ delta.
Trong hầu hết các trường hợp, có nhiều mỡ ở vùng cơ tam đầu cánh tay hơn vùng cơ delta. Ngoài ra còn có nhiều mỡ ở ranh giới giữa hai cơ này.
Có hai máy USG trong phòng khám của tôi. Một là máy USG di động và rất hữu ích vì nó có thể được di chuyển xung quanh
trong văn phòng của tôi, phòng xét nghiệm máu, điều trị và phòng mổ.Tôi khuyên các phòng khám có thực hiện kỹ thuật hút mỡ nên mua loại thiết bị USG cầm tay này, vì nó rẻ hơn thiết bị cố định.
Vị trí chuẩn bị trước khi phẫu thuật và vô trùng
Cần phải vô trùng một vùng rộng lớn của cơ thể bệnh nhân trước khi phẫu thuật vùng cánh tay. Toàn bộ vùng trên của cơ thể phải vô trùng, bao gồm các vùng xuống đến hông, bằng sử dụng potadine. Toàn bộ vùng cánh tay phải vô trùng, bao gồm tất cả các đầu ngón tay (Hình 4.18). Do đó, phải có đường truyễn tĩnh mạch ở đầu bàn chân hoặc ở mắt cá chân(Hình 4.19). Nếu không có thể tìm thấy mạch máu nào ở phía bàn chân, thì có thể bắt đầu tạo đường truyền tĩnh mạch trên mu bàn tayvà gây mê bằng propofol.
Một số phòng khám bắt đầu phẫu thuật với đường tiêm tĩnh mạch ở mu bàn tay mà không sát trùng cổ tay. Đây không phải là một phương pháp vô trùng tốt và có thể thay đổi vị trí bệnh nhân để thực hiện hút mỡ cánh tay 360°.
Sắp đặt phòng mổ
Các dụng cụ hút mỡ đặt ở vị trí ở bên trái của bệnh nhân là tốt nhất. Các xe đẩy với các dụng cụ phẫu thuật nên đặt ở phía bên phải của bệnh nhân. Một đường tiêm tĩnh mạch an toàn đặt ở phía trên của bàn chân và dung dịch tumescent được chích vào (Hình 4.20).
Cần đảm bảo rằng ống sil-icon và dụng cụ phẫu thuật nằm trên xe đẩy. Chuẩn bị thêm các ống hút, miếng băng và gạc đã vô trùng, hộp đựng potadine, mes và kéo.
Một số bác sĩ nghĩ rằng việc đặt máy bơm tiêm dung dịch tu-mescent (Hình 4.21) dưới bàn mổ gần chân bệnh nhân là tốt hơn để giữ phòng mổ gọn gàng. Bạn có thể đặt nó lên bàn khác để đảm bảo ngăn ngừa nhiễm trùng.
Tác giả thích đặt nó dưới bàn phẫu thuật. Tôi tin rằng có khả năng nhiễm trùng rất thấp, khi tôi quấn một ống Silicon đã vô trùng bằng một ống treo đã vô trùng và để nó trên sàn nhà.
2.1 Dung dịchTumescent
Nước muối bình thường 1L + epinephrine 1,5A + 30 ml lido-caine 2% + bicarbonate 10 ml
Thông thường, tôi sử dụng trung bình 2500-> 3000 mL dung dịch tumescent.
Tôi sử dụng epinephrine nhiều hơn 50%, gấp 1,5 lần so với các vùng khác (1 Ample). Vùng cánh tay có nhiều cử động hơn vùng bụng và đùi, do cơ phát triển hơn và mỡ cứng hơn ở các vùng khác. Đây là lý do tại sao cần tăng lượng epinephrine.
Cần thêm dung dịch tumes-cent và tăng lượng epinephrine đến lớp mỡ sâu hơn gần với cơ trong trường hợp hút ở cánh tay.
Không có sự tăng đáng kể về huyết áp và tỷ lệ rối loạn nhịp tim xảy ra, vì tôi theo dõi điện tâm đồ và huyết áp trong khi phẫu thuật.
2.2 Gây mê
Ban đầu, tiêm 0,4 ml ket-amine và sau đó 6-7 mL propo-fol. Sau giai đoạn này, tôi sử dụng thuốc liên tục, tiêm 4 ml cứ trong 4 phút. Đây là liều lượng trung bình. Tùy thuộc vào bệnh nhân, tôi tiêm 4 ml trong 2 phút hoặc 4 ml trong 6 phút
Tôi tiêm 0,4 ml ketamine chia làm 3->4 lần nữa trong quá trình phẫu thuật tùy theo tình huống của bệnh nhân.
Có thể thực hiện phẫu thuật với gây tê tại chỗ bằng dung dịch tumescent; do đó, nếu bệnh nhân không muốn ngủ khi gây mê, có thể tiến hành phẫu thuật dưới gây tê tại chỗ.
Gây mê toàn thân nên tránh, vì tác dụng gây co mạch thấp, tăng chảy máu và quan trọng hơn là bệnh nhân không thể đảm nhận nhiều tư thế khác nhau trong quá trình phẫu thuật.
Vùng vết mổ
Tôi thực hiện ba vết rạch da: tại vị trí nếp gấp của trước nách, vị trí nếp gấp nách ở lưng và một ở giữa nếp gấp khuỷu tay (Hình 4.22).
Thực hiện các vết rạch nhỏ khoảng 3 mm. Trong quá trình phẫu thuật, vùng vết mổ có thể được mở rộng bằng ống cannula, nhưng không chính xác để tạo một vết mổ lớn ngay từ đầu.
Một số bác sĩ không phải là chuyên gia trong việc hút mỡ có thể gặp khó khăn khi đẩy ống can-nula do bị chặn lại đột ngột và chỉ cần lắc nhẹ cổ tay làm cho ống can-nula đổi hướng thì có thể đẩy ống cannula nhẹ nhàng. Điều này làm mở rộng vùng cần hút mỡ.Lời giải thích không dễ hiểu. Các bác sĩ vẫn đang học từ chỗ của tôi vẫn thấy nó là một kỹ thuật khó. Để giải quyết vấn đề này một cách dễ dàng hơn, bác sĩ phẫu thuật cần phải đẩy cannula đi qua vùng hút mỡ một cách nhẹ nhàng mà không bị chặn lại, đẩy ống cannula càng xa càng tốt.
Trong trường hợp sẹo rạch da cánh tay, hầu hết bệnh nhân không than phiền, vì thực hiện vết rạch ở những vùng hầu như không thể phân biệt.
Phương pháp rạch
Tôi rạch 3 mm bằng mes (Hình 4.23). Trong trường hợp khuỷu tay, thực hiện một vết rạch da dọc theo nếp gấp khuỷu tay
.Nếu ống cannula không đưa vào dễ dàng qua lỗ rạch, nó có thể rạch kéo dài ra một chút bằng kéo nhỏ. Ý nghĩa của việc kéo dài không phải là làm cho vết mổ lớn hơn mà là mở rộng mô dưới da, là phần bên trong của vùng vết mổ.
2.3 Phương pháp phẫu thuật
Tiêm dung dịch Tumecent theo phương pháp MDMP
Phương pháp MDMP có nghĩa là tôi tiêm dung dịch tumescent theo nhiều hướng khác nhau và tôi sử dụng đa dạng 10 vị trí để tiêm dung dịch tumescent vào tổ chức mỡ.Hút mỡ vùng bikini và cánh tay là những vùng mà phương pháp MDMP đã sử dụng hiệu quả nhất.
Trong trường hợp hút mỡ ở cánh tay, tiêm dung dịch tumes-cent ở các góc khác nhau, tiêm vào tất cả các lớp mỡ qua ba vùng: một ở khuỷu tay và hai ở vùng nách trước và sau, và vị trí của bệnh nhân có thể thay đổi trong 10 hướng trong quá trình phẫu thuật.Tôi tiêm trung bình 1000->1500 mL dung dịch tumescent vào mỗi cánh tay (bao gồm cả nách).
Ở hầu hết các phòng khám, khi thực hiện hút mỡ cánh tay, họ tiêm dung dịch tumescent ít hơn: 1000->2000 mL cho cả hai cánh tay. Tiêm dung dịch đầy đủ tumes-cent là cần thiết trong quá trình hút mỡ cánh tay
Số lượng dung dịch tumes-cent để tiêm cho đùi và cánh tay không khác nhau nhiều.
Trong trường hợp cánh tay, tiêm dung dịch tumescent vào lớp nông hơn so với đùi. Trong trường hợp vùng cơ delta, cần tiêm dung dịch tumescent đến lớp mỡ sâu nhất sao cho có cảm giác như bị chọc vào cơ. Da mặt trong cánh tay thì mỏng. Da vùng vai thì dày. Đây là lý do tại sao da vùng mặt trong trở nên trắng và da vùng vai không trắng lên sau khi tiêm dung dịch tumescent. Nếu việc hút mỡ bắt đầu 15 phút sau khi tiêm dung dịch tu-mescent, có thể hút mỡ nhiều mà ít chảy máu.
Trong trường hợp đùi, việc hút có thể bắt đầu ngay sau khi tiêm dung dịch tumescent, hút ra mỡ có màu vàng mà không chảy máu nhiều. Lượng dung dịch tu-mescnet hút ra là nhỏ.
Tuy nhiên, trong trường hợp cánh tay, tiêm một lượng lớn dung dịch tumescent vào để phân giải mỡ trong tất cả các lớp và hút mỡ ra càng nhiều mỡ càng tốt.
Tôi thích bắt đầu hút mỡ mà không phải chờ đợi sau khi tiêm dung dịch tumescent, vì tôi muốn rút ngắn thời gian phẫu thuật và không có nhiều sự khác biệt trong kết quả phẫu thuật. Do đó, chờ trong 15 phút là tùy thích của mỗi phẫu thuật viên.
Hình 4.24 cho thấy: Các vị trí sử dụng trong tiêm dung dịch tumescent. Có một số vị trí bổ sung thêm. Vì mỗi bác sĩ thích một vị trí khác nhau, nếu chúng được thêm vào, thì có thể thực hiện thao tác hút mỡ thuận lợi hơn.
Hút mỡ bằng phương pháp MDMP
Một nguyên tắc chính của hút mỡ là có thể thay đổi vị trí bệnh nhân một cách nhanh chóng và sử dụng các hướng hút mỡ khác nhau, có nghĩa là sử dụng phương pháp MDMP.
Việc tiến hành hút mỡ phải thực hiện từ vùng xa vị trí vết mổ đến vùng gần vị trí vết mổ (Hình 4.25).
Để làm cho mặt ngoài của cánh tay trông dài hơn, cần thực hiện hút đủ mỡ ở hai bên cánh tay và vùng phía trên của nách nối với cánh tay (Hình 4.26). Điều này cho phép mặt ngoài của cánh tay trông dài hơn; do đó, điều này một lần nữa dẫn đến cánh tay trông tự nhiên và thon gọn hơn (Hình 4.27).
Các vùng đánh dấu màu đen trong
Hình 4.28 cho thấy mặt ngoài của cánh tay. Vùng đánh dấu bằng chữ A là một phần kết nối của cánh tay và nách.
Hút mặt ngoài của cánh tay là vùng hút được ít mỡ nhất của cánh tay. Vùng này giống như vùng dưới của cánh tay khi cánh tay đưa lên.
Vùng đánh dấu bằng chữ B trong
Hình 4.28 cho thấy vùng phình ra bên ngoài khi nhìn vào cánh tay từ phía sau. Đây là phần khó nhất trong hút mỡ cánh tay. Hiểu rõ giải phẫu về cơ delta, cơ tam đầu cánh tay và ranh giới của hai cơ này.
Thực hiện hút tối đa vùng cơ delta, mặc dù không có nhiều mỡ.
Việc hút mỡ cần phải tiến hành cẩn thận sao cho cơ của delta và cơ tam đầu không bị phình ra. Trong các cuốn sách mô tả kỹ thuật hút mỡ trước đây, nó đã cho là nên tránh hút mỡ mặt ngoài cánh tay. Tuy nhiên, có thể thực hiện việc hút mỡ hoàn toàn và kỹ lưỡng. Vùng khuỷu tay có thể phình ra nếu hút mỡ không hết ở phía trong của vùng này. Cần phải hình thành vùng hút mỡ trong một vùng rộng hơn về phía trước như vùng cẳng tay.
Trong hình 4.29, tác giả dùng hai ngón tay để ép da xuống. Điều này để cố định và giữ mỡ ở lớp mỏng hơn và thực hiện hút lượng mỡ được tối đa.Cần thực hiện hút mỡ hết ở phía trước và phía sau của cánh tay và nách (Hình 4.30). Khi phụ nữ mặc áo ngực, da ở những vùng này bị đẩy lên do mất độ đàn hồi của da và trông giống như mỡ. Tuy nhiên, hầu hết mọi người có ít mỡ trong các vùng này.
Nên thông báo cho bệnh nhân biết về lượng mỡ trong vùng này trước khi phẫu thuật. Sau phẫu thuật, nên thông báo về kết quả hút mỡ cho bệnh nhân.Mức độ hài lòng của bệnh nhân giảm rất nhiều sau phẫu thuật nếu bệnh nhân nghĩ rằng vẫn còn có một lượng lớn mỡ trong vùng này , mặc dù sự phồng ra là do mất độ đàn hồi của da.
Hình 4.31 cho thấy một số vị trí sử dụng để hút vùng nách trước. Rất tốt khi bắt đầu hút từ xa hơn trong vùng giữa nếp gấp nách trước và cánh tay. Nếu tiến hành hút trong vùng nếp gấp càng nhiều càng tốt, có thể tránh phồng.
Nên hút mỡ ở lớp mỡ nông bề mặt bằng cách ấn bằng lòng bàn tay xuống vùng này. Giữ càng nhiều da càng tốt và hút xuống lớp bỏ mỡ sâu hơn. Có thể được nâng cánh tay bệnh nhân lên ở vị trí 90° và hút mỡ ngay bên dưới cánh tay (Hình 4.32, 4.33, 4.34 và 4.35).
Chọn Cannula
Khi thực hiện hút mỡ cánh tay, tôi thích dùng ống cannula 4 mm. Tôi không dùng loại 3 mm. Tôi đã từng sử dụng ống cannula 3 mm cách đây 15 năm. Tuy nhiên, phải mất hơn gấp đôi thời gian để hút cùng một lượng mỡ so với phẫu thuật
sử dụng ống cannula 4 mm. Cũng có thể có sự khác biệt về số lượng mỡ hút. Vì vậy, tôi khuyên bạn nên sử dụng ống cannula 4 mm khi đã quen với việc hút mỡ.
Nếu bác sĩ phẫu thuật đã thành thạo trong việc sử dụng ống cannula 4 mm, hút không đều sẽ không xảy ra.
Sử dụng eva
Khi tôi sử dụng thiết bị hút mỡ EVA, tôi thường thực hiện hút mỡ với áp lực máy là 3. Đôi khi tôi thực hiện hút mỡ với áp lực 2.5, nhưng ít dùng hơn.
Lựa chọn áp lực này cuốicùng là sự lựa chọn của từng bác sĩ cho từng bệnh nhân.Tác giả đôi khi thực hiện hút mỡ với áp lực 4, áp lực 4 thì độ rung rất mạnh. Có thể khi đã quen với độ rung của eva. Do đó, nếu bác sĩ phẫu thuật đã quen với độ rung của eva, tôi khuyên bạn nên sử dụng áp lực là 4.
Nếu bác sĩ bị chai da ở mặt trong của ngón cái và ở giữa của các ngón tay, thì bác sĩ này có thể được coi là một người có kỹ năng sử dụng EVA.
Khi sử dụng EVA trong một thời gian dài, bác sĩ phẫu thuật có thể bị đau ở bên vai phải trong trường hợp của người thuận tay phải. Vai bị tê cứng có thể xảy ra. Vì vậy, tốt nhất là khi hút mỡ nên dùng hoạt động của cơ delta và làm căng nó. Và đừng quên xoa bóp massage các cơ quanh vai.
2.4 Phương pháp véo da rất thuận lợi khi hút mỡ
Có một số vùng rất tốt khi dùng tay đè vào da để hút lớp mỡ sâu, và một số vùng ở lớp nông (Hình 4.36).
Điều cần thiết là dùng toàn bộ lòng bàn tay đè vào da bệnh nhân, để giảm bất thường gợn sóng không đều và kích thích da trong quá trình hút và cũng để cố định da.
Hình 4.37 cho thấy: vị trí véo da giữ mỡ lại với nhau bằng cách sử dụng các ngón tay để hút mỡ theo cách phức tạp hơn. Khi loại bỏ mỡ ở vị trí này, có thể cảm thấy mỡ biến mất khỏi ngón tay khi ta hút mỡ và làm cho việc hút mỡ có thể kết thúc sớm hơn.
Khi mỡ được hút từ vùng da dày và dai, có thể dễ dàng hút từ lớp mỡ mong muốn, lớp sâu hoặc lớp nông bằng cách véo da lên cao bằng ngón tay và kiểm soát đầu cannula (Hình 4.38).
Sử dụng phương pháp véo da để có thể thực hiện thay đổi hút từng lớp mỡ, ngay cả trong cùng một vùng (Hình 4.39, 4.40 và 4.41).
Lý thuyết hút mỡ mới của EVA
Trong các cuốn sách hút mỡ trước kia thì mặt ngoài của cánh tay, nơi có các mô sợi khỏe và rắn chắc và do đó không thể thực hiện hút mỡ hoàn toàn.
Khi thiết bị rung khí mạnh được gọi là EVA đã giới thiệu, tuy nhiên, có thể thực hiện hút mỡ hoàn toàn ở mặt ngoài cánh tay. Sự ra đời của EVA đã tạo thành một lý thuyết hút mỡ mới.
Thiết bị EVA có chức năng dừng hút khi chạm vào cơ hoặc nếu bị mô mỡ cứng kẹt trong ống cannula. Điều này cho phép giảm khả năng tổn thương mạch và dây thần kinh ở vùng nách trước và nách sau
.Hơn nữa, chức năng rung của EVA giảm thiểu tổn thương mô của lớp mỡ dưới da. Do đó, nếu hút mỡ theo cách này để ghép mỡ vào vú, kết quả có thể rất khả quan.Nhiều bác sĩ cho rằng việc loại bỏ mỡ bằng thiết bị rung là sai lầm vì nó có thể dẫn đến làm tổn thương nhiều tổ chức mô.
Tuy nhiên, khi tôi so sánh từng lượng mô mỡ hút ra bằng phương pháp thủ công và phương pháp rung, không có sự khác biệt đáng kể giữa hai phương pháp này.
Hơn nữa, tỷ lệ sống sót của mỡ ghép ở vú bằng cách sử dụng từng lượng mỡ thu được từ đùi và từ cánh tay là tương tự nhau, cho thấy không có sự khác biệt đáng kể.
Do đó, nó có thể rất tốt cho việc sử dụng thiết bị EVA để hút mỡ vùng đùi, cánh tay ghép lên mặt hoặc ngực được dễ dàng hơn.
Có rất nhiều hình ảnh trong chương về ghép mỡ tế bào gốc ở vú trong cuốn sách này.
2.5 Hút mỡ cho vùng xệ xuống của cánh tay
Có thể chia vùng cánh tay thành hai loại: một loại có lượng mỡ lớn và chảy xệ rất nhiều (cánh tay nặng) và một loại có ít mỡ và ít chảy xệ.
Trong hầu hết các trường hợp, cánh tay chảy xệ nhiều là do có một lượng lớn mỡ dư ra. Nguyên nhân gây chảy xệ là trọng lượng của lượng mỡ quá nhiều. Nếu hút hết mỡ, thì cánh tay chảy xệ sẽ thu gọn lại và hết chảy xệ.
Trong một số trường hợp, độ giãn da vẫn còn khi ta véo da bằng ngón tay. Tuy nhiên, một điểm rõ ràng là nó cải thiện rấtnhiều nếu nhìn ở bên ngoài
Nên mặc quần áo bó chặc cho những bệnh nhân này, và theo dõi sau phẫu thuật là rất quan trọng.
Một hiệu ứng nâng tốt hơn có thể sẽ cung cấp cho da chảy xệ bằng cách dùng laser diode 980nm, đưa đầu dò laser vào lớp dưới da trong quá trình hút mỡ.
Sau khi phẫu thuật, theo dõi bằng cách sử dụng tần số RF ba cực + kích hoạt động cơ với tần số thấp (DMA) có thể giúp tăng độ đàn hồi cho da.
Tập thể dục cánh tay tích cực sau khi phẫu thuật có thể mang lại hiệu quả nâng và tăng độ đàn hồi da tốt hơn.
Một điều quan trọng sau phẫu thuật là bệnh nhân không nên cố gắng giảm cân trong một khoảng thời gian rất ngắn. Giảm cân đột ngột và nhanh chóng làm giảm độ đàn hồi của da.
Nếu bệnh nhân có ít mỡ và da dư thừa nhiều thì nên cắt bỏ da, cẩn thận để lại sẹo.Hình 4.42, 4.43, 4.44 và 4.45 cho thấy một bệnh nhân đã từng bị chảy xệ cánh tay, đã cải thiện sau khi hút mỡ.
2.6 Chăm sóc sau phẫu thuật
Mặc quần áo: vào ngày thứ ba
Cắt chỉ: vào ngày thứ bảy
Sau 1 tuần: dùng sóng siêu âm hội tụ.
Sau 2 tuần: điều trị thêm săn chắc da
Sau 3 tuần: có thể dùng thêm RF ba cực + tần số thấp DMA Dùng RF lưỡng cực sử dụng nhiệt độ 42>44° C làm nóng sâu hơn. Nếu da trở nên cứng sau khi hút mỡ thì dùng RF lưỡng cực sẽ rất hiệu quả, bệnh nhân có thể cảm thấy thoải mái, nhưng độ cứng trở nên tồi tệ hơn. Đây là lý do tại sao tôi không khuyên bạn nên sử dụng RF lưỡng cực.
Siêu âm hội tụ xuống độ sâu 10 cm trong lớp mỡ, giúp phục hồi độ cứng da sau khi hút mỡ.
Một mẹo nhỏ cho massage là cơn đau có thể giảm bằng cách giữ da ở một đầu và bắt đầu ma-sage ở vị trí đối diện.
Bác sĩ phẫu thuật có thể cảm thấy thực sự hữu ích của chăm sóc sau phẫu thuật, nếu anh ta hoặc cô ta thực sự áp dụng đủ các phương pháp xử lí cho bệnh nhân.
Mặc đồ bó chặc
Nếu da của bệnh nhân có độ đàn hồi tốt, sau đó cho phép bệnh nhân mặc quần áo bó chặc trong 12 h mỗi ngày. Nó là tốt hơn để mặc nó vào ban đêm và cởi nó vào ban ngày.
Lý do để đề nghị mặc nó trong 12 giờ là để ngăn ngừa sưng ở tay và chấn thương da do mặc liên tục của quần áo bó chặc.
Hiệu ứng của quần áo bó chặc về mặt ép có thể giảm kích thước của nó sau mỗi 2-> 3 tuần.
Mặc quần áo bó chặc trong một tháng có thể cho kết quả khả quan.
Hình 4.46 cho thấy một sản phẩm áo bó chặc đã may riêng trong một công ty sản xuất hàng may mặc áo bó với thiết kế đặc biệt của tôi. Quần áo này cung cấp độ nén hoàn toàn bằng cách nén ép vùng nách.
Hình 4.47 và 4.48 cho thấy bệnh nhân mặc quần áo bó chặc ngay sau khi phẫu thuật. Toàn bộ cánh tay và mặt sau và mặt trước của nách đã ép tốt với nhau.
Thời gian thực hiện
Tiêm dung dịch tumescent: 15 phút
Thời gian hút mỡ: 20 phút cho một cánh tay
Tổng cộng mất 50-> 60 phút
Số lượng mỡ hút
Về số lượng hút mỡ, tôi đã thực hiện hút mỡ ở vùng eo của phụ nữ với 100 ml người có eo thon, và với 5000 ml ở người thừa cân.
Mức độ hài lòng của hút mỡ là khá tốt khi loại bỏ được hơn 1000 ml từ một phụ nữ nặng 60 kg. Bệnh nhân rất hài lòng khi hút hơn 1500 ml. Tuy nhiên, một số người có thể cảm thấy rất hài lòng khi hút ít hơn 600 ml, tùy thuộc vào hình dạng cánh tay. Do đó, mức độ hài lòng không chỉ có thể được xác định bằng lượng hút.
2.7 Biến chứng
Tụ dịch (seroma)
Seroma là một biến chứng đôi khi có thể xảy ra sau khi hút mỡ cánh tay. Có thể thấy sự cải thiện sau khi hút bằng ống syringe (Hình 4.49, 4.50 và 4.51).
Khi xảy ra tụ dịch, bệnh nhân phàn nàn về đau và sưng ở cánh tay. Nếu không có sẵn máy siêu âm USG, có thể kiểm tra khám kỹ và dùng ống syringe để thực hiện hút dịch ra.
Viêm
Viêm là một biến chứng hiếm gặp. Tôi đã gặp phải một trường hợp viêm mô tế bào. Bệnh nhân đã giảm hơn trong vòng 7ngày sau bằng cách dùng kháng sinh nhóm cefa. Nếu không hồi phục, sau đó nên cho bệnh nhân nhập viện.
Chảy máu hoặc bầm tím
Tỷ lệ chảy máu hoặc bầm tím là tùy thuộc vào kỹ năng của bác sĩ thực hiện phẫu thuật. Không có nhiều trường hợp chảy máu ở cánh tay, nhưng bầm tím thì hay xảy ra. Điều này cần giải thích cho bệnh nhân trước khi phẫu thuật.
Tổn thương thần kinh
Tổn thương thần kinh là biến chứng rất hiếm gặp không xảy ra trong hầu hết các trường hợp. Sau khi hút mỡ, khi các tổ chức trở nên cứng lại, có thể bị chèn ép các dây thần kinh ngoại biên, dẫn đến tê ở cánh tay trong vài tháng.
Sắc tố da
Tăng sắc tố da có thể xảy ra khi hút mỡ khi thực hiện hút ở lớp mỡ nông.
Da không đều
Da không đều là biến chứng hay gặp nhất. Các phẫu thuật viên nên thực hiện mỡ một cách cẩn thận.
Khó chịu trong việc di chuyển cánh tay
Khi các tổ chức trở nên cứng lại sau khi hút mỡ, bệnh nhân có thể cảm thấy khó chịu khi cử động cánh tay trong 1->2 tháng. Chăm sóc và dùng thêm cácphương pháp vật lí trị liệu tại chỗ và thường xuyên sau phẫu thuật là rất quan trọng.
Mổ lại do da bất thường sau khi hút mỡ
Có thể phẫu thuật hút mỡ lại cánh tay ngay cả khi không hút mỡ ở vùng này hoặc nếu phần bên ngoài của cánh tay bị phồng lên, vì việc hút mỡ không được thực hiện cho toàn bộ cánh tay. Tuy nhiên, khi có quá nhiều tổ chức xơ dính hoặc đã thực hiện hút mỡ quá nhiều, việc phẫu thuật hút lại có thể khó khăn.
Trường hợp 1. Khi chỉ xem Hình 4.52, thực hiện thao tác hút mỡ dường như rất thành công. Tuy nhiên, khi xem hình 4.53, chụp từ một góc độ khác, có thể thấy rằng đã loại bỏ mỡ chưa hết (Hình 4.54, 4.55 và 4.56).
Vùng đánh dấu màu xanh lam với chữ B cho thấy cánh tay phình ra ở bốn vị trí, có nghĩa là hiệu quả hút mỡ là chưa đủ. Điều này là do vùng mặt ngoài cánh tay không được hút mỡ. Điểm mấu chốt của việc mổ hút lại là thực hiện hút mỡ toàn bộ vùng mặt ngoài của cánh tay. (Hình 4.57).Cánh tay trông dài hơn và đường thẳng của cánh tay rất đẹp khi thực hiện hút hết mỡ ở vùng màu đỏ với chữ A. Trong hình này, vùng A thực sự cho thấy hút mỡ chưa hết.
Trường hợp 2. Trong trường hợp này, việc hút mỡ chỉ thực hiện thông qua một vết rạch da, nằm ở khuỷu tay (Hình. 4.58, 4.59, 4.60, 4.61 và 4.62).
Phần dưới của cánh tay (phía sau cánh tay) bị tạo thành một đường cong do đã hút mỡ trước đó. Vùng cơ delta, là phần bên ngoài của cánh tay và vùng cơ tam đầu cánh tay, bị bất thường do đã hút mỡ chưa đủ hết.
Hút mỡ không thực hiện ở vùng phía mặt sau trên nơi gặp nhau của nách và cánh tay.
Trong giai đoạn thiết kế, tôi đã đánh dấu các vùng còn lại nhiều mỡ. Tôi cũng đánh dấu vùng đã thực hiện hút mỡ quá nhiều bằng một dấu gạch chéo. Tôi đánh dấu các vùng ranh giới giữa các cơ. Xem xét những điểm này, tôi đã tiến hành mổ hút mỡ lại.
Trong trường hợp phẫu thuật lại hút lại, mỡ dưới da ở trong tình trạng cứng lại do vôi hóa từ lần hút mỡ trước đó. Do đó, tiêm dung dịch tumescent và vùng vôi hóa bằng cánh dung máy siêu âm phân giải mỡ (Ultra-Z).
Tôi khuyên bạn nên sử dụng ống hút 4 mm thay vì 3 mm trong trường hợp mổ lại. Trường hợp 3 Vùng cơ delta, là phần phía ngoài của cánh tay, do hút mỡ không tốt phần ngoài của cánh tay, dẫn đến mặt ngoài cánh tay bị phình ra. Có sự bất thường vì vùng cánh tay gần nách cũng không hút hết mỡ. Tôi đã thực hiện hút mỡ lại (Hình 4.63, 4.64, 4.65, 4.66, 4.67, 4.68, 4.69, 4.70 và 4.71).
Trường hợp 4 Trường hợp này cho thấy do thực hiện hút mỡ 360° không tốt (Hình 4.72, 4.73, 4.74, 4.75 và 4.76)
.Có thể nhìn thấy bất thường nghiêm trọng vì có vùng hút mỡ quá nhiều và có vùng hút mỡ ít. Mặt ngoài cánh tay thì không hút mỡ.
Hình ảnh trước và sau
Trong trường hợp 1, hình. 4.77, 4.78, 4.79, 4.80, 4.81 và 4.82 cho thấy trước và sau khi phẫu thuật, chụp từ nhiều góc độ.
Có thể thu được một kết quả khả quan, ngay cả khi nhìn từ nhiều vị trí khác nhau khi thực hiện hút mỡ 360°.
Trường hợp 2.
Hình 4.83 và 4.84 cho thấy cơ thang trông nhỏ hơn khi thực hiện hút mỡ xuống vùng bên dưới nách và hút mỡ cánh tay 360°. Phần bên ngoài đã trở nên gần như thẳng, làm cho vai trông hẹp hơn.
Trường hợp 3 Bệnh nhân thể hiện trong hình. 4.85 và 4.86 giống như trong trường hợp 2.
Trường hợp 4 Trong trường hợp này (Hình 4.87 và 4.88), lượng hút mỡ là 2000 mL. Đường vai và cánh tay đã thẳng hơn, làm cho phần thân trên trông nhỏ
Trường hợp 5.
Hình 4.89 và 4.90 cho thấy bệnh nhân trước và sau phẫu thuật.
Trường hợp 6.
Hình 4.91 và 4.92 cho thấy đường tự nhiên khi cánh tay được nâng 90°. Khuỷu tay cũng cho thấy một đường tự nhiên.
Trường hợp 7. Khi nhìn cánh tay từ mặt bên, mặt sau có vẻ thẳng hơn, làm cho cánh tay trông dài hơn (Hình 4.93 và 4.94). Mặt sau của cánh tay là vùng có hiệu ứng yo-yo ít nhất.
Trường hợp 8. Vùng chảy xệ của cánh tay là do trọng lượng của mỡ trong hầu hết các trường hợp (Hình 4.95). Do đó, với việc hút mỡ hết vùng này, có thể được giải quyết vấn đề về da chảy xệ sau khi phẫu thuật (Hình 4.96).
3 Hút mỡ vùng bụng và bikini
Hình mẫu có đường nét tự nhiên thể hiện trong hình 5.1, cơ thể khỏe mạnh và thon gọn của bụng và eo.
S-line là niềm mơ ước ở tất cả phụ nữ là một đường mà tất cả các bác sĩ thực hiện hút mỡ nằm mơ có được!
Tác giả chia phần thân trên thành vùng bụng và vùng bikini. Vùng bụng theo nghĩa đen có ng-hĩa là một vùng có cơ bụng. Vùng bikini có nghĩa là một vùng bắt đầu từ bụng bên và bao gồm eo, vùng lưng (bên dưới đường áo ngực) và vùng hông trên.
Giờ đây, các sách hút mỡ đã mô tả riêng về mỡ 2 bên eo và vùng lưng, nhưng tác giả gọi những vùng này là đường bikini. Tôi đã giới thiệu tên này, đường bikini, lần đầu tiên du nhập vào Hàn Quốc. Tôi khuyên các bác sĩ nên thực hiện hút mỡ vòng eo và phẫu thuật hút mỡ lưng cùng nhau (Hình 5.2, 5.3, 5.4 và 5.5).
Vùng bikini có kết quả hút mỡ rất tốt trong đó không có nhiều hiệu ứng yo-yo và bệnh nhân cho thấy mức độ hài lòng rất cao sau (Hình 5.2, 5.3, 5.4 và 5.5).Vùng bikini có kết quả hút mỡ rất tốt trong đó không có nhiều hiệu ứng yo-yo và bệnh nhân cho thấy mức độ hài lòng rất cao sau
khi hút mỡ. Hút mỡ vùng bụng và vùng bikini là những nơi mà tôi sử dụng phương pháp đa vị trí, đa hướng (MDMP), có thể sử dụng một cách hiệu quả.
Sự khác biệt về kiến thức giải phẫu với hút mỡ thực tế
Lớp mỡ dưới da của bụng được phân chia bởi fascia. Vùng bụng trên chia thành ba lớp và bụng dưới bốn lớp. Phần giữa được gọi là mô sợi ở vùng eo.
Khi thực hiện hút mỡ thì cần phải hiểu biết đến kiến thức giải phẫu này. Do đó, rất khó để loại bỏ mỡ từ vùng eo, nơi có một lượng lớn các mô sợi và bụng trên, nơi có nhiều mô xơ hơn ở vùng bụng dưới, gây chảy máu và đau đớn hơn trong quá trình hút mỡ.
Vì những lý do này, nồng độ epinephrine và lidocaine cần phải cao hơn khi tiêm dung dịch tumes-cent ở vùng eo và bụng trên.
Tuy nhiên, vì các thiết bị hút mỡ đang cải tiến dần, các khái niệm và lý thuyết về hút mỡ bụng cũng đang thay đổi.Vùng bụng chia thành 3->4 lớp giải phẫu theo fascia. Tuy nhiên, trong phẫu thuật hút mỡ, lượng mô mỡ và mô sợi hiển thị trên siêu âm (USG) là quan trọng hơn (Hình 5.6, 5.7 và 5.8).
Có thể nói một cách an toàn rằng việc phân chia lớp mỡ dưới da bằng fascia là không có nghĩa trong quá trình hút mỡ.
Người ta biết rằng rất khó để loại bỏ mỡ ở vùng eo, với một lượng lớn các mô sợi và bệnh nhân bị đau nhiều hơn trong quá trình hút, nhưng điều này đã được giảm bớt khi những thiết bị rung được phát triển.
3.1 Những điểm quan trọng trong khi thực hiện hút mỡ ở vùng bụng và bikini
Độ dày mỡ
Vùng bikini rất rộng và 3 chiều, và do đó, đo độ dày mỡ khi nhìn vào USG là vô nghĩa. Có thể đo dự kiến lượng mỡ thực sự bằng cách kiểm tra bằng mắt và bằng cách kiểm tra véo da để đo độ dày của mỡ bằng tay.
Lượng mỡ dự kiến của vùng bụng có thể đo bằng độ thừa mỡ của bụng và độ dày của lớp mỡ dưới da.
Lớp mỡ dưới da bụng có thể dễ dàng đo khi kiểm tra USG. Một số bác sĩ đo độ dày của lớp mỡ dưới da bằng cách sử dụng test véo da, nhưng điều này không hợp lý hoặc chưa khoa học.
Test véo da có thể không chính xác khi độ đàn hồi của da bệnh nhân thấp. Trong trường hợp này, độ dày có thể đo được chứ không phải là lượng mỡ thực tế. Một sai lầm nữa là lượng mỡ có thể đo được bằng mắt thường bằng cách dùng test véo da có thể khác nhau tùy theo số lượng da mỡ bị véo lên bởi các ngón tay.
Thông thường, tôi tiến hành phẫu thuật hút mỡ khi độ dày mỡ hơn 2,5 cm khi kiểm tra USG, nhưng đây không phải là nguyên tắc nhất quán. Tôi quyết định có nên thực hiện hút mỡ hay không bằng cách xem xét các yếu tố và điều kiện khác nhau.
Sự hữu ích của việc kiểm tra USG là tôi có thể giải thích cho bệnh nhân về kết quả hút mỡ dự kiến trước bằng cách tìm ra một tỷ lệ lớp mỡ dưới da ở vùng nhiều nhất của bụng.Hút mỡ bụng bao gồm hút hết các lớp mỡ dưới da. Do đó, nếu bệnh nhân bị nội tạng bên trong quá lớn hoặc quá giãn cân cơthành bụng, thì mức độ hài lòng có thể thấp hơn. Trong một số trường hợp, thậm chí phẫu thuật hút mỡ có thể không nên tiến hành.
Nếu số lượng lớp mỡ dưới da chiếm hết phần lớn vùng bụng, thì nó có thể ước lượng kết quả hút mỡ dự kiến. Ngoài ra, bệnh nhân có thể nghĩ rằng nếu bụng trên nhô ra nhiều hơn bụng dưới, thì bụng trên sẽ trở nên thon hơn so với bụng dưới sau phẫu thuật. Tuy nhiên, nếu lượng mỡ ở bụng trên ít hơn so với ở bụng dưới khi kiểm tra USG, bệnh nhân có thể thông báo rằng mức độ hài lòng sau phẫu thuật với kết quả hút mỡ vùng bụng trên có thể thấp hơn so với vùng bụng dưới (Hình 5.9, 5.10 và 5.11).
Khi nhìn vào vùng bụng trên, nó nhô ra nhiều hơn bụng dưới, nhưng thực tế, vùng bụng trên có nhiều mỡ hơn. Trường hợp này cho thấy một bệnh nhân nam có mỡ toàn bộ vùng bụng như dự đoán nhiều hơn so với tỷ lệ thực tế của lớp mỡ dưới da. Điều này là do sự nhô ra cơ thẳng bụng. Tôi gọi loại này là bụng nòng nọc.
Độ liên kết giữa mỡ và mô sợi
Độ liên kết giữa mô mỡ và mô sợi khác nhau rất nhiều giữa các bệnh nhân. Phẫu thuật hút mỡ trở nên khó khăn khi độ liên kết trở nên chắc chắn hơn. Thật tốt nếu chúng ta tìm ra bao nhiêu mô sợi dưới USG trước khi hút mỡ.
Độ đàn hồi của da
Độ đàn hồi của da giảm sau khi hút mỡ. Trong trường hợp bụng có một lượng mỡ lớn, sự chảy xệ ở bên ngoài có thể tốt hơn vì nó được nâng lên sau khi hút mỡ bằng cách hút hết hớp mỡ thừa. Da sẽ tự đàn hồi, tuy nhiên, không cải thiện nhiều ngay cả sau khi hút mỡ.
Do đó, ở những bệnh nhân có độ đàn hồi da kém, nên quyết định hút mỡ bằng cách xem xét số lượng mỡ (Hình. 5.12 và 5.13).
Có nếp gấp da, nhưng điều này biến mất sau khi hút mỡ vì độ đàn hồi của da bệnh nhân rất tốt.
Lượng hút mỡ: bụng + bikini 5000 ml
Đây là dấu hiệu rám nắng của da bệnh nhân ở vùng bikini của cô ta. Cô đi hưởng tuần trăng mật 6 tháng sau khi hút mỡ.
Hút mỡ vùng bikini được tôi đặt tên là lấy cảm hứng từ bệnh nhân này.
Người phụ nữ này ở độ tuổi 50 và bị thoái hóa khớp và đau thắt ngực. Tôi đã thực hiện một ca phẫu thuật để giảm nguy cơ phẫu thuật (Hình 5.14).
Hút mỡ bụng dưới được thực hiện trước, sau 2 ngày sau đó là hút mỡ bụng trên (Hình 5.15).
Không nhìn thấy sự chảy xệ của bụng trong ảnh được chụp một tháng sau khi phẫu thuật (Hình 5.16).
Bệnh nhân này cho thấy có thể thực hiện hút mỡ ngay cả khi da bị chảy xệ nghiêm trọng, chỉ khi có một lượng lớn mỡ ở vùng bụng và độ đàn hồi da tốt.
Lượng mỡ hút là 2000 ml
Mỡ thay đổi theo tuổi
Trong hầu hết các trường hợp, việc hút mỡ trở nên đơn giản và dễ dàng hơn ở những bệnh nhân lớn hơn 50 tuổi, vì mỡ và mô xơ trở nên mềm hơn. Tôi chưa xác định liệu tổ chức mô mỡ và mô xơ mềm này có phải do sự thay đổi estrogen hay không. Điều rõ ràng là dễ dàng thực hiện hút mỡ ở những bệnh
Ảnh hưởng của sự thay đổi trong các tế bào mỡ
Nếu hai bệnh nhân có trọng lượng tương đương và lượng mỡ tương tự nhau, việc hút mỡ sẽ dễ dàng hơn ở những bệnh nhân đã tăng cân trong một thời gian ngắn. Tôi nghĩ rằng điều này cũng liên quan đến mức các tổ chức nối giữa mô mỡ và mô sợi.
Nhiều nếp nhăn da ở bụng
So với một người có thói quen giữ thẳng lưng, những người có xu hướng gù lưng, có bộ ngực lớn hoặc những người có xương sườn nhô ra trước khi họ gập (cuối) phần thân trên của họ về phía trước.
Đường gấp này có thể xấu đi sau khi hút mỡ. Cần cẩn thận.Bệnh nhân này có nhiều nếp gấp quanh rốn và một nếp gấp ở bụng trên. Do đó, tôi chỉ tiến hành hút mỡ vùng bikini, không hút mỡ vùng bụng (Hình 5.17 và 5.18). Hình 5.17 Trước khi hút mỡ vùng bikini
Độ đàn hồi của da tại vùng xung quanh đường áo ngực
Khi độ đàn hồi da ở vùng lưng thấp, mỡ phình ra xung quanh đường viền áo ngực khi bệnh nhân mặc áo ngực. Có thể tin không chính xác rằng vì sự phình ra này, có nhiều mỡ hơn thực tế. Do đó, điều này cần được giải thích cho bệnh nhân trước khi phẫu thuật, để họ hiểu kết quả sau phẫu thuật.
Ở lưng dường như có một lượng mỡ lớn khi dùng test véo da (Hình 5.19). Khi khám dưới USG, có thể thấy mỡ ít (Hình 5.20).
Khi so sánh ảnh trước và sau phẫu thuật, có thể thấy vòng eo thon hơn rất nhiều. Tuy nhiên, vùng lưng xung quanh đường viền áo ngực không thay đổi nhiều (Hình, 5.21, 5.22, 5.23 và 5.24).
Căng giãn cân cơ thành bụng
Ở những phụ nữ đang mang thai hoặc đã trải qua sinh đẻ và những người đàn ông bị tăng áp lực trong phúc mạc do nội tạng lớn, các cơ bụng trở nên mỏng hơn và tràn sang một bên, dẫn đến bụng bị nhô ra.
Trong trường hợp này, độ dày cơ và độ dày mỡ nên đo trước khi phẫu thuật bằng cách thực hiện đo dưới siêu âm USG.
3.2 Chụp ảnh
Trước và sau khi phẫu thuật thì hình ảnh cần phải chụp từ các góc độ khác nhau. Thật tốt khi chụp ảnh, cho phép bệnh nhân quay theo hướng trong các khoảng 45° (Hình 5.25).
Thiết kế
Mỗi người có một hình dạng bụng khác nhau. Điểm này cần được xem xét khi thiết kế (Hình. 5.26 và 5.27).5.5 Vị trí vô trùng và chuẩn bị trước phẫu thuật
Hình 5.28 cho thấy bệnh nhân trong đó tất cả các khâu để phẫu thuật đã hoàn thành. Bắt đầu vô trùng từ cổ bệnh nhân đến cổ tay bằng potadine. Trong trường hợp ở phần dưới cơ thể, vùng xuống bắp chân nên vô trùng.
Bệnh nhân này đã được hút mỡ bụng ở một phòng khám khác. Cô cho thấy phản ứng dị ứng với potadine, dẫn đến sẹo da nghiêm trọng và tăng sắc tố da ở bắp chân (Hình 5.29). Đây là một trường hợp rất hiếm gặp và đã báo cáo ở một bệnh viện của trường Đại học.
Cô ấy đã hút mỡ cánh tay trong phòng khám của tôi. Tôi đã sử dụng zephanon và alcohol để vô trùng cho bệnh nhân này.
Truyền đường tĩnh mạch để cung cấp dịch ở phía mu bàn tay của bệnh nhân. Dịch truyền tĩnh mạch (thông thường tôi sử dụng D/W 500 ml) trong quá trình phẫu thuật nên giới hạn ở mức dưới 100 ml/giờ.
Vì dung dịch tumescent sẽ làm tăng lưu lượng tuần hoàn, nên tăng thể tích nội mạch bằng cách hydrat hóa tĩnh mạch.
3.3 Sắp đặt phòng phẫu thuật
Các dụng cụ phẫu thuật nên sắp xếp trên xe đẩy, nằm ở phía bên phải của bàn mổ. Máy hút EVA, là thiết bị phẫu thuật và bơm tiêm
nên ở phía bên trái của bàn mổ (Hình. 5.30 và 5.31).
Cần chú ý đặc biệt để đảm bảo rằng các dụng cụ phẫu thuật và ống silicon không rơi ra khỏi xe đẩy (Hình 5.32).
Các ống hút bổ sung, một miếng săng vải vô trùng, gạc vô trùng, chén chứa potadine, mes và kéo nên chuẩn bị sẵn sàng.
Khi lần đầu tiên tiêm dung dịch tumescent trong khi hút mỡ bụng, bệnh nhân nên được đặt ở tư thế nằm sấp. Sự khác biệt về chiều cao của vùng giữa lưng và hông trở nên rõ ràng khi vùng giữa của lưng trở nên thấp hơn hông. Đặt giữ bụng với một tấm vải cuộn và vô trùng(Hình 5.33).
Điều này có thể làm giảm sự khác biệt về chiều cao, cho phép tiêm dung dịch tumescent dễ dàng hơn ở vị trí nằm sấp
3.4 Dung dịch Tumescent
Nước muối bình thường 1L + epi-nephrine 1.0A + 30 mL lìdocaine 2%+ bicarbonate 10 mL
Bụng: sử dụng trung bình 1500 -> 2000 mL
Bikini: sử dụng trung bình 2000 -> 3000 mL
Bụng + bikini: sử dụng trung bình 3000 -> 4000 mL
Trong trường hợp vùng lưng, tôi sử dụng 1,5 ống epineph-rine trong đó nồng độ của nó tăng 50% so với vùng bụng và eo. Vì vùng lưng có da dày hơn và ít mỡ hơn các vùng khác, nên hút mỡ từ lớp mỡ sâu gần với cơ và sau đó đến lớp mỡ nông gần da. Tăng nồng độ epinephrine để giảm chảy máu.
Như trong (A), nếu tiêm-dung dịch tumescent quá gần da, da sẽ trở nên trắng. Trong trường hợp này, khả năng hút mỡ ở lớp quá nông tăng lên, và điều này có thể gây ra sự bất thường của da.
(B) cho thấy dung dịch tu-mescent không tiêm nhiều như (A), nơi da trở nên trắng. Ở vùng (B), ít chảy máu và bầm tím xảy ra. Tốt nhất nên để lại hơn 5 mm của lớp mỡ từ da. Do đó, khuyến cáo rằng dung dịch tumescent không nên tiêm quá gần da (Hình 5.34).
Chảy máu và bầm tím trong quá trình hút mỡ có thể xảy ra khi hút mỡ mà không tiêm dung dịch tumescent đủ sâu đến lớp mỡ gần với cơ.
Gây tê
Khởi đầu, 0,4 ml ketamine và sau đó tiêm 6->7 ml propo-fol. Sau giai đoạn này, tôi sử dụng propofol không liên tục, tiêm 4 ml trong 4 phút. Đây là con số trung bình. Tùy thuộc vào bệnh nhân, tôi tiêm 4 ml trong 2 phút hoặc 4 mL trong 6 phút.
Tôi tiêm thêm 0,4 ml ket-amine 3->4 lần trong suốt quá trình phẫu thuật tùy theo tình huống.
Các cases phẫu thuật có thể thực hiện dưới gây mê; do đó, nếu bệnh nhân không muốn gây mê để ngủ thì phẫu thuật có thể tiến hành gây tê tại chỗ.
Gây mê toàn thân nên tránh vì nó có tác dụng co mạch thấp, làm tăng chảy máu và quan trọng hơn là bệnh nhân không thể xoay chuyển nhiều tư thế khác nhau trong quá trình phẫu thuật.
Hơn nữa, gây mê toàn thân trong hút mỡ bụng làm yếu cơ thẳng bụng. Do vùng cơ thẳng bụng bị suy yếu này, có thể chọc ống cannula vào trong phúc mạc, có thể dẫn đến viêm phúc mạc. Gây mê toàn thân, do đó, nên tránh.
Vị trí rạch da
Các vết mổ trong trường hợp hút mỡ bụng có thể thực hiện ở hai khu vực, một vết mổ cho bên phải và bên trái của nếp lằn vú. Thực hiện hai vết mổ nữa ở bên phải và bên trái của bụng dưới. Có thể thực hiện thêm các vết mổ xung quanh rốn. Trong trường hợp vùng bikini, các vị trí vết mổ có thể là: một ở hai bên hông và một ở giữa xương hông, một ở đường viền áo ngực, phía trên đường eo-eo, một ở giữa lưng xung quanh đường viền áo ngực, và mỗi vết mổ cho mỗi bên ở vùng phía trên hông.
Thông qua các vị trí vết mổ này, tôi tiêm dung dịch tumescent và tiến hành hút mỡ MDMP có tính đến sự chuyển động của mỡ (Hình. 5.35, 5.36 và 5.37).
Sử dụng mes để thực hiện vết rạch vết mổ dài 3 mm. Rạch và tách mô dưới da, nằm dưới vết rạch da quan trọng hơn kích thước của vết rạch da. Làm điều này là để cho ống cannula có thể dễ dàng đẩy qua vết rạch da.
Dùng kéo chèn vào lớp mỡ dưới da thông qua vết rạch 3 mm và mở rộng kích thước vết rạch của lớp mỡ dưới da (Hình 5.38).
Tôi khâu vết mổ ngay sau khi phẫu thuật. Một số bác sĩ khâu vết mổ 1->3 ngày sau. Tuy nhiên, tôi không khuyến khích điều này. Nếu không có chảy máu trong quá trình hút mỡ, bạn có thể khâu vết mổ ngay lập tức. Nếu không khâu vết mổ, bệnh nhân không thể mặc quần áo bó và phải băng ép, điều này có thể gây ra sự bất thường của da. Hơn nữa, dịch máu màu đỏ có thể chảy ra qua vị trí vết mổ và rơi xuống đất, khiến bệnh nhân cảm thấy khó chịu và lo lắng.
Tác giả đã từng khâu vết mổ vào ngày thứ 2 sau khi phẫu thuật, khâu như vậy khoảng 2 năm kể từ khi tôi bắt đầu thực hiện hút mỡ. Sau đó, tôi khâu vết mổ ngay sau khi phẫu thuật. Không có nguy hiểm hoặc ảnh hưởng xấu đến kết quả phẫu thuật. Do đó, tôi khuyên bạn nên khâu vết mổ ngay sau khi phẫu thuật.
Không có vấn đề gì về dung dịch tumescent còn sót lại bên trong bệnh nhân vì nó sẽ hấp thụ vào cơ thể và được bài tiết qua nước tiểu. Không cần phải cố ép dung dịch tumescent ra khỏi vết mổ sau khi phẫu thuật.
3.5 Phương pháp phẫu thuật
Tiêm dung dịch tumescent
Sử dụng phương pháp MDMP
Phương pháp MDMP có nghĩa là tôi tiêm dung dịch tumes-cent theo nhiều hướng khác nhau và tôi sử dụng các vị trí phẫu thuật khác nhau để tiêm dung dịch tu-mescent.
Sử dụng phương pháp MDMP để hút mỡ vùng bikini là rất hiệu quả. Lý do cho tầm quan trọng của phương pháp MDMP này là vì nó rất cần thiết trong việc giảm đau và giảm chảy máu trong quá trình phẫu thuật
Lượng dung dịch tumescent cho một bệnh nhân nặng 60 kg là 1500 ml khi hút mỡ bụng, 2000 ->3000 mL cho hút mỡ vùng bikini và kết hợp hút mỡ bụng và bikini là 3000 ->4000 mL.
Trong trường hợp hút mỡ bụng, nếu bắt đầu hút 15 phút sau khi tiêm dung dịch tumescent, lượng dịch máu có màu đỏ sẽ hút ra sẽ ít hơn và có ít máu trong mỡ hút ra hơn.
Trong trường hợp hút mỡ bikini, đợi trong 15 phút. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng nó không thực Mỡ màu vàng vẫn có thể hút ra và ít chảy máu.Các giải thích sau đây cho thấy sử dụng một số vị trí trong tiêm dung dịch tumescent. Có vị trí bổ sung. Vì mỗi bác sĩ thích một vị trí khác nhau, nếu các bác sĩ ưa thích các vị trí khác nhau thì có thể kết hợp lại, làm sao để có thể thực hiện việc hút mỡ có kết quả tốt nhất.sự quan trọng trong trường hợp vùng bikini; do đó, tôi bắt đầu hút ngay sau khi tiêm dung dịch tu-mescent.
Vùng lưng
Hình 5.39 cho thấy tiêm dung dịch tumescent ở các hướng khác nhau vào vùng lưng bệnh nhân. Tốt hơn là sử dụng ống chích cannula có hình dạng cong chứ không phải là ống có đường thẳng. Hình dạng cong này giúp đưa đầu ống cannula vào vùng xa nhất, đi qua vùng bị lõm ở phần giữa của lưng.
Đầu tiên, tiêm dung dịch tu-mescent theo nhiều hướng ở một vị trí. Sau đó, thay đổi vị trí của bệnh nhân sang vị trí bên ngoài để tiêm dung dịch tumescent bổ sung vào vùng lưng.
Khi đã hoàn thành bước này, tiêm dung dịch tumescent vào tất cả các lớp mỡ; do đó, không có chảy máu khi hút mỡ từ vùng lưng.
Trên thực tế, vùng có ít chảy máu nhất khi tiến hành hút mỡ vùng bụng-bikini là ở vùng lưng.
Tuy nhiên, nếu tiêm vào một lượng dịch không đủ, thì việc hút mỡ ở vùng lưng này có thể gặp khó khăn. Đây là lý do tại sao các phòng khám khác khó thực hiện hút mỡ ở vùng lưng.
Vị trí hai bên
Trong các vùng đánh dấu bằng các chữ cái A, B và C, mỡ dường như bị lan xuống dưới khi bệnh nhân thay đổi sang nghiên bên trong khi phẫu thuật (Hình 5.40).
Nếu trước đó tiêm dung dịch tumescent vào vùng A ở vị trínằm sấp, thì cũng nên tiêm dung dịch tumescent ở vị trí 2 bên. Điều này giúp tiêm dung dịch tumes-cent hoàn chỉnh hơn, vì dung dịch tumescent có thể tiêm vào tất cả các lớp mỡ đồng đều.
Tiêm dung dịch tumescent ở vị trí 2 bên (Hình 5.41), nghĩa là, xoay người bệnh về phía họ, là rất quan trọng.
Thông qua lỗ rạch tại A, nên tiêm dung dịch tumescent theo nhiều hướng.
Rất khó để đưa ống cannula thông từ vị trí vết mổ đến vùng xa nhất, như thể hiện ở F. Do đó, bác sĩ phẫu thuật cần phải luyện tập chăm chỉ để trở nên quen với việc đẩy ống cannula.
Ống cannula phải đi qua lớp mỡ ở nông theo hình cong và hướng đến vùng giữa như đã hiển thị trong B để dễ dàng đẩy ống cannula từ vị trí vết mổ đến vùng xa nhất. Đẩy nhanh bằng cách sử dụng một xoay cổ tay nhanh để có thể bổ sung thêm khi bị kẹt lại.
Có thể tiêm dung dịch tu-mescent qua các lỗ rạch như thể hiện trong A, B và C, nhưng tiêm dịch qua các lỗ tiêm ở sườn là có thể, như trong hình H và I.
Trong trường hợp vùng lỗ rạch của hình A, tốt hơn là tiêm dung dịch qua lỗ rạch của hình H. Điều này được áp dụng tương tự trong trường hợp hút mỡ.
Thật dễ dàng để tiêm dung dịch vào lớp mỡ sâu ở phần lớn nhất của vùng eo như trong hình I.
Có thể tạo ra một lỗ rạch da tại một vùng đã thiết kế bằng ngón tay như trong hình J trong Hình 5.42. Thông qua lỗ rạch này, có thể tiêm dung dịch tumescent thêm một lần nữa vào các vùng lỗ rạch như thể hiện trong hình A và I.
Tư thế nằm ngửa
Ở tư thế nằm ngửa này, dung dịch tumescent có thể tiêm vào toàn bộ bụng (Hình 5.43). Dung dịch tumescent cũng có thể tiêm vào vùng eo-eo và vùng lưng, có thể tiêm bằng tay (Hình 5.44).
Trong hầu hết các trường hợp, có thể thực hiện các vết mổ ở các vùng như hiển thị trong hình 1 và 2. Thực hiện các vết rạch ở các vùng bên dưới ngực như trong hình 3 và 4.
Nên tiêm dung dịch tumes-cent theo các hướng khác nhau tại một số vị trí vết mổ như hiển thị bởi mũi tên trong hình.
Có thể thực hiện một vết mổ thêm ở vùng rốn. Mục tiêu đầu tiên của lỗ rạch ở rốn là tạo thêm lực hút ở vùng bụng trên trong hầu hết các trường hợp. Mục tiêu thứ hai là nâng rốn đã bị chảy xệ.5.11.2 Hút mỡ theo phương pháp MDMPMột nguyên tắc chính của hút mỡ là tiến hành phẫu thuật bằng cách có thể thay đổi vị trí bệnh nhân một cách nhanh chóng và theo nhiều hướng khác nhau, có nghĩa là sử dụng phương pháp MDMP (Hình 5.45).5.11.2.1 Vị trí hai bênVùng A là nơi tìm thấy lượng mỡ lớn nhất ở eo khi bệnh nhân đứng. Khi bệnh nhân nằm ở hai phía bên, mỡ di chuyển đến vùng B (Hình 5.46).Vùng màu xanh nằm ngay phía trên tay cầm khi bệnh nhân đứng lên. Vùng này có ít mỡ và nếp gấp da. Tuy nhiên, mỡ di chuyển đến vùng này khi bệnh nhân nằm nghiên xuống. Do đó, phải hút mỡ bằng cách xem xét chuyển động của mỡ theo các vị trí khác nhau.
Vùng phía trên đường màu xanh, cho thấy vùng phía trên của xương chậu, trở thành vùng phía trên hông, nơi dường như có một lượng lớn mỡ trên xương chậu khi bệnh nhân đứng. Trên thực tế, có thể xảy ra trường hợp có một lượng lớn mỡ, nhưng trong hầu hết các trường hợp, đó là mỡ chảy xệ phủ qua vùng xương chậu.
Vùng đánh dấu bằng một vòng tròn màu xanh là nơi mỡ di chuyển đến vùng A khi thay đổi vị trí sang phía 2 bên (Hình 5.47). Điều này phải được xem xét khi hút mỡ. Càng nhiều mỡ càng tốt trong vùng này để tránh mỡ phía trên hông sẽ chùng xuống hoặc phình ra. Nói cách khác, điều này là để tránh hiện tượng vòng eo trông thon thả, nhưng vùng 2 bên hông dường như bị phồng lên.
Vùng bị gạch chéo màu đỏ
cho thấy một vùng ranh giới giữa bụng và eo. Ở vị trí 2 bên, mỡ đã giảm xuống (Hình 5.48). Nên hút mỡ, có tính đến sự chuyển động của mỡ theo các vị trí khác nhau để tạo ra một đường đẹp hơn sau khi phẫu thuật.
A và D cho thấy hút mỡ xung quanh hai vị trí vết mổ theo cách bổ sung. Đây là cùng một vùng với mỡ phình phía trên hông (Hình 5.49 và 5.50).B và E là nơi hút ở phần mỏng nhất ở giữa eo. Vị trí B tốt hơn vị trí E để hút toàn bộ lớp mỡ.
Mỡ có thể hút bằng cách dùng bàn tay để giữ mỡ như trong E.
C và F chỉ ra cách thực hiện hút đến vùng xa nhất. Thật dễ dàng nếu bác sĩ phẫu thuật làm quen với chuyển động của ống hút cannula. Vị trí này không dễ nếu bác sĩ phẫu thuật có ít kinh nghiệm.
Vị trí nằm sấp
Trong hình 5.51, A cho thấy vùng lưng xung quanh đường viền áo ngực là nơi da dày nhất. Hút dưới lớp mỡ ở giữa là dễ dàng trong vùng này, nhưng không dễ để hút lớp mỡ gần da. Trong vùng
mỡ, có thể thấy một vòng eo thon thả hơn nhiều.
Nếu thuận tay phải, thì việc hút ở bên trái của vùng eo khó khăn hơn so với bên phải của vùng eo. Để tránh sự bất cân xứng ỏ 2 bên eo sau khi hút mỡ, cần chú ý nhiều hơn đến việc hút mỡ ở bên trái của vùng eo.
Hình 5.52 cho thấy hút mỡ từ vị trí vết mổ của vùng lưng theo vùng sườn. Điều này có thể làm cho một đường eo trông tự nhiên hơn, vì nó dễ dàng hút vùng sườn và gối đệm eo.
Tôi thích rạch ở vùng này nếu có một lượng lớn mỡ.nên di chuyển ống cannula theo nhiều hướng và vào nhiều vị trí. Da nên được ép lại để hút cả lớp mỡ sâu và lớp mỡ nông.
B và C cho thấy hút bên trái của vùng eo. Nếu mỡ tập trung nhiều ở vùng lưng và sau khi hút
Vị trí nằm ngửa
Các vị trí như trong hình
5.53 cho thấy đã hoàn thành việc hút mỡ ở vùng eo và bụng. Có thể hút mỡ ở vùng bụng thông qua 4->5 vị trí rạch da theo nhiều hướng khác nhau.
Điều rất quan trọng là hút đều từ cả bụng trên và bụng dưới. Trong trường hợp của tôi, tôi hútmỡ càng nhiều càng tốt ở vùng eo để tránh hiệu ứng yoyo, nhưng tôi chỉ hút 50-60% mỡ từ bụng.
Điều này là do khi hút mỡ quá nhiều ở bụng, có thể hình thành đường gấp tùy thuộc vào hình dạng cơ thể, hoặc có thể xảy ra da không đều.
Trong trường hợp hút mỡ vùng bụng, tôi đề nghị nên hút mỡ khi lớp mỡ dày hơn 2,5 cm. Từ cấu trúc giải phẫu của bụng, người ta đã biết rằng việc hút mỡ là khó khăn ở những vùng có lượng mô sợi lớn. Tuy nhiên, tôi tin rằng không có sự khác biệt, vì các dụng cụ hút mỡ đã phát triển rất nhiều.
Điều thích hợp để nói rằng khó khăn trong việc hút mỡ bụng là do nhiều các mô sợi nối với mỡ vùng bụng.
Khi thực hiện hút mỡ bụng, rất khó thực hiện hút so với lượng mỡ thực tế và có thể thấy rằng mỡ được hút trong điều kiện ít phân giải hơn. Trong trường hợp này, có thể phải phân giải mỡ bằng thiết bị siêu âm phân giải mỡ (ULTRA-Z) và sau đó hút ra.
Cần hết sức cẩn thận khi thực hiện hút mỡ quanh rốn. Khi hút xung quanh rốn quá mạnh, hình dạng của rốn có thể thay đổi. Hơn nữa, hút chính nó là rất khó khăn trong vùng rốn. Có thể sử dụng ống cannula 3mm để hút mỡ và kết thúc cuộc phẫu thuật.
3.6 Chọn Cannula
Tôi thường sử dụng ống cannula có độ dày 4 mm. Thỉnh thoảng tôi sử dụng ống cannu-la 3 mm cho vùng quanh rốn. Tôi không khuyên bạn nên sử dụng ống cannula 5 mm.Tôi thường sử dụng một ống cannula dài 47->49 cm. Nó không quan trọng về loại ống cannula. Thường có 3->4 lỗ hút bên trênđầu ống cannula. Tôi chỉ sử dụng ống cannula có bọc bên ngoài tại vết rạch. Lớp bọc qua ống cannula làm giảm ma sát của ống hút mỡ với da tại vị trí vết mổ, ngăn ngừa tăng sắc tố.
3.7 Sử dụng EVA
Khi tôi sử dụng thiết bị hút mỡ EVA, tôi thường thực hiện thao tác với áp lực 3. Đôi khi tôi thực hiện thao tác với áp lực 2.5, nhưng điều này ít sử dụng hơn.Lựa chọn áp lực cuối cùng này là về sự lựa chọn riêng của từng phẫu thuật viên.
Tác giả tiến hành hút mỡ và sử dụng áp lực 4, đó là độ rung rất mạnh. Điều này có thể xảy ra khi bác sĩ phẫu thuật đã quen với độ rung của eva. Do đó, nếu bác sĩ phẫu thuật đã quen với độ rung của eva, tôi khuyên bạn nên sử dụng áp lực
Các phương pháp véo da khác nhau rất có ích trong quá trình hút mỡ
Véo da hoặc ép vào da bằng lòng bàn tay hoặc ngón tay
Có một số vùng tốt khi ấn vào da để hút lớp mỡ ở sâu và một số vùng cho lớp ở nông (Hình 5.54 và 5.55).
Dùng lòng bàn tay đè vùng da cần hút xuống để giảm độ đung đưa và kích ứng cho da trong quá trình hút và để cố định da.
Khi hút mỡ ở một vị trí dưới bàn tay của bác sĩ, bác sĩ phẫu thuật có thể cảm thấy làmỡ đang biến mất khỏi ngón tay bằng cách hút và thời gian hút mỡ có thể hoàn thành sớm hơn (Hình 5.56).
Véo giúp nâng da lên bằng ngón tay
Nếu da được nâng lên ở nơi da dày và cứng bằng ngón tay, bác sĩ phẫu thuật có thể dễ dàng hút vào vùng sâu hơn (Hình 5.57).
Véo giúp nâng một vùng lớn da bằng tay
Hình 5.58 cho thấy hiệu quả của việc hút một vùng rộng lớn.
Véo da có thể đẩy mỡ từ bên dưới bằng ngón tay cái
Hình 5.59 cho thấy hút trong một vùng cong.
Véo da có giữ mỡ cùng với bàn tay
Hình 5.60 cho thấy hút mỡ ở vùng mỡ chảy xệ.
Có thể hút lớp mỡ khác nhau tùy theo độ véo da , ngay cả trong cùng một khu vực
Hình 5.61 và 5.62 cho thấy nâng da lên và ấn vào da.
Nhận biết vùng hút bằng cách dùng Cannula nâng mỡ lên
Thật vô nghĩa khi thấy kết quả của việc hút mỡ bằng cách dùng ống cannula nâng mỡ lên(Hình 5.63). Nếu thực hiện hút mỡ chủ yếu ở lớp mỡ sâu, thì có thể nâng một vùng rộng lớn da dày lên. Nếu thực hiện hút mỡ ở lớp quá nông, da có thể trở nên mỏng hơn.
Tuy nhiên, trong hình 5.64, với bệnh nhân đã kết thúc quá trình hút mỡ, vẫn còn tình trạng
mỡ phồng lên do dung dịch tu-mescent còn lại. Lớp mỡ F không bị phân chia sau khi hút mỡ; do đó, dùng cannula để nâng da lên thì độ dày của da nâng có thể khác nhau tùy theo độ sâu của ống.
3.8 Điều trị thêm sau mổ
Mặc quần áo: vào ngày thứ ba
Cắt chỉ: vào ngày thứ bảy
Sau 1 tuần: điều trị siêu âm hội tụ.
Sau 2 tuần: dùng thêmmáy săn chắc da
Sau 3 tuần: có thể dùng thêm tần số vô tuyến (RF) ba cực + và kích hoạt tần số thấp (DMA)
Tôi cho phép bệnh nhân được sử dụng dịch vụ thêm 06 lần sau mổ. Sử dụng RF lưỡng cực Nhiệt độ sâu 42 ->44°C. Nếu thực hiện nó sau khi da trở nên cứng sau khi hút mỡ, bệnh nhân có thể cảm thấy thoải mái, nhưng độ cứng trở nên xấu hơn. Đây là lý do tại sao tôi không khuyên bạn nên dùng RF lưỡng cực.
Siêu âm điều trị xuống sâu đến 10 cm trong lớp mỡ, giúp phục hồi độ cứng sau khi hút mỡ.
Bí quyết cho vật lí trị liệu là có thể giảm đau.
Bác sĩ phẫu thuật có thể cảm thấy sự hữu ích của điều trị thêm sau phẫu thuật nếu việc điều trị thực sự được thực hiện ở bệnh nhân.
Băng ép
Khi thực hiện hút mỡ bằng phương pháp MDMP , dịch thoát ra sau phẫu thuật là ít. Do vậy, đường mổ nên khâu lại ngay sau mổ và bệnh nhân mặc quần áo gel
Các bác sĩ phẫu thuật không cân hút dẫn lưu hay băng ép dịch
Rất dễ mặc đồ gel ở vùng bụng và vùng bikini hơn là vùng đùi
Khi bệnh nhân có da chun giãn tốt. Tôi khuyên cô ta mặc đồ bó chặc trong 12h / ngày
Thời gian phẫu thuật
Tiêm dung dịch tumescent: bụng10 phút, bikini 15 phút
Thời gian hút mỡ: bụng 20 phút, bikini 40 ->50 phút
Lượng hút mỡ
Sử dụng siêu âm USG có thể đo độ dày mỡ, chiều dài ngang (chiều rộng) và chiều dài dọc (chiều cao) của bụng. Giá trị đạt được bằng độ dày mỡ × chiều dài ngang (chiều rộng) × chiều dài (chiều cao) cho thấy diện tích ba chiều bề mặt của bụng. Tốt nhất là hút 50% diện tích ba chiều bề mặt đã tính toán này. Do đó, 50% trong số đó có thể là số lượng mỡ dự kiến sẽ hút.
Một lượng hút trung bình ở vùng bụng + vùng bikini của một người phụ nữ có chiều cao 160 cm và cân nặng 60 kg là khoảng 2000 ->3000 mL.
Trong trường hợp này, sự giảm kích thước vùng bụng là khoảng 4 –5 in tại chu vi rộng nhất.
Biến chứng thẩm mỹ của hút mỡ
Trường hợp 1 Một bệnh nhân nữ ở độ tuổi 20 đã hút mỡ bụng ở một phòng khám khác từ một bác sĩ có ít kinh nghiệm (Hình 5.66). Đây là 3 tháng sau khi phẫu thuật.
Hình 5.67 cho thấy độ dày của lớp mỡ dưới da là 3 mm và độ dày của vùng da bị viêm sau phẫu thuật là 3 mm.Siêu âm cho thấy đã thực hiện việc hút quá nhiều mỡ ở vùng này. Hình ảnh của bụng cho thấy có một độ bám dính lớn. Khi tôi sờ bụng cô ấy, tôi có thể cảm nhận được cơ bụng của cô ấy ngay dưới da và xác nhận độ cứng của da.
Người ta cũng cho rằng việc hút quá nhiều này có thể gây chảy máu.Trong vùng này không thể mổ lại. Lớp ranh giới giữa hai vùngnày sẽ trở nên tồi tệ hơn nếu bệnh nhân tăng cân.Hình 5.68 cho thấy độ dày của mỡ còn lại là 1,0 cm. Viêm lan rộng. Trường hợp này,các vị trí vết mổ nằm ở phần dưới của bụng. Do đó, thậm chí tiến hành hút theo nhiều hướng sẽ rất khó thực hiện
Hút theo hướng ngang qua hai vị trí vết mổ đó là nguyên nhân chính gây ra tình trạng hút không đều ở vùng 1 và 2.
Nếu bác sĩ đã rạch thêm bên dưới vú, việc hút theo hướng dọc sẽ có thể, điều này có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của các biến chứng (Hình 5.69 và 5.70).
Khi nếp gấp được hình thành ở vùng 3, có thể có nhiều chỗ phồng hơn. Vùng này cho thấy tầm quan trọng của việc mặc quần áo bó chặc sau khi hút mỡ.
Trong trường hợp này, phòng khám đã ngăn cô mặc một bộ quần áo bó. Tuy nhiên, bệnh nhân đã mua một bộ quần áo bó và tự mặc nó.
Mỡ ở vùng trên xương sườn thì vẫn chưa hút hết, nơi đây có xương sườn. Hơn nữa, đã thực hiện hút mỡ không hết ở vùng phía trên eo, hiển thị dưới đường áo ngực
Thực hiện hút mỡ thông qua hai vùng rạch ở bụng và một vùng rạch ở giữa xương chậu. Có thể thực hiện hút hết mỡ ở vùng eo và vùng lưng trong trường hợp này.
Nếu tiến hành mổ lại, các vết rạch bổ sung và hút qua các vị trí vết mổ này phải theo nhiều hướng.
Tuy nhiên, bệnh nhân cho thấy như là da bị thiếu sự đàn hồi. Hút vừa phải là cần thiết chứ không phải hút quá nhiều.
Hình 5.71 và 5.72 cho thấy một vùng phía trên rốn. Độ dày mỡ của vùng này là 1,0 cm. Trong trường hợp da có độ đàn hồi giảm, nếu thực hiện hút lực ở vùng này, thì vùng này có thể trông gấp khúc khi bệnh nhân cuối gập phần thân trên của cô ấy. Cần cẩn thận với điều này.
Nếu việc hút chỉ diễn ra thông qua các vết rạch ở bụng dưới, thì khó có thể đưa ống cannula vào miếng mỡ ở vùng sườn và hút mỡ. Do đó, nếp gấp da xảy ra trên vùng ranh giới của lớp mỡ đệm trên vùng thượng vị, nằm dưới lớp mỡ đệm trên xương sườn.
Trường hợp 2 Tiến hành hút mỡ và phẫu thuật tạo hình thành bụng cùng một lúc.
Bệnh nhân này cho thấy sự bất cân xứng nghiêm trọng ở bên trái và bên phải của bụng. Ngoài ra còn có sự bất thường và bám dínhnghiêm trọng ở vùng bụng và vùng eo trái. Thay vào đó là tìm thấy vùng phía trên vị trí phẫu thuật tạo hình bụng thì hút mỡ chưa hết. Vùng phồng phía trên đường mổ tạo hình thành bụng có thể cải thiện bằng cách mổ lại để hút mỡ ở toàn bộ bụng. Thực hiện hút mỡ vừa đủ ở bên trái của bụng và vùng eo nơi có độ bám dính nhiều. Điều này sẽ làm giảm đi sự bất cân xứng của toàn bộ bụng. Thực hiện hút mỡ, có thể giúp cải thiện các vết lõm trong vùng có độ bám dính cao.
Khi tiến hành hút mỡ bụng với phẫu thuật tạo hình thành bụng, thực hiện hút mỡ bụng trước sau đó là phẫu thuật tạo hình thành bụng. Nếu thực hiện phẫu thuật tạo hình bụng như trong trường hợp này, cần phải thực hiện việc bóc tách hoàn toàn ở vùng bụng trên trước và sau đó tiến hành phẫu thuật hút mỡ và căn da.
Trong trường hợp này, rốn của bệnh nhân nằm ở vị trí tương đối cao hơn, hạn chế sự cắt bỏ da đến vị trí của rốn. Điều này có thể ngăn ngừa làm phẳng da bụng sau khi phẫu thuật tạo hình thành bụng và gây ra da bất thường ở vùng phía trên rốn, như trong trường hợp này (Hình 5.73).
Trường hợp 3 Vết lõm vào sau khi lấy mỡ để ghép nơi khác.
Vùng bị lõm ở 2 bên của người đàn ông dày 6 mm. Các vùng khác có độ dày mỡ 21,2 mm. Đây là một biến chứng hay gặp có thể gây ra khi lấy mỡ ở vùng bụng để ghép đến chỗ khác của cơ thể (Hình 5.74). Để xử lí biến chứng này, cần phải hút mỡ lại ở toàn bộ bụng. Độ dày của lớp mỡ là 21,2 mm, gây khó khăn cho việc hút mỡ vì lượng mỡ ít (Hình 5.75). Hút mỡ ít thể làm giảm biến chứng, nhưng việc hút mỡ quá nhiều có thể gây ra biến chứng thứ phát nặng hơn.
5.20 Ảnh trước và sau
Trường hợp 1 Hút mỡ Bụng + bikini(Hình 5.76, 5.77, 5.78 và 5.79).
Trường hợp 2 Hút mỡ bi-kini (Hình 5.80 và 5.81)
Phụ nữ / 28 tuổi
Ảnh chụp sau ngày khi phẫu thuật
Nó cho thấy rằng không có vết bầm vào ngày thứ 1 sau khi phẫu thuật và có thể thấy rằng vòng eo đã trở nên thon gọn hơn.Trường hợp 3 Hút mỡ bụng và bikini
Tuổi: 36 tuổi
Chiều cao: 161 cm
Trọng lượng: 57,8 kg
Trọng lượng cơ : 36,1 kg
BMI: 33,6
Độ dày mỡ: vùng bụng trên 3,0 cm, bụng dưới 3,2 cm
Lượng hút mỡ: 2300 ml.
Kích thước 3 vòng trước khi phẫu thuật: 83/95/90 (Hình 5.82)
Kích thước 3 vòng sau khi phẫu thuật: 76,5 / 85/87 (Hình 5.83)
Trường hợp 4 Hút mỡ vùng bikini
Tuổi: 26 tuổi
Chiều cao: 163 cm
Trọng lượng: 47 kg
Lượng hút mỡ: 450 mL
Kích thước 3 vòng trước khi phẫu thuật: 64 / 74,5 / 80 (Hình 5,84)
Kích thước 3 vòng sau khi phẫu thuật: 58,5 / 71/78 (Hình 5.85)
Trường hợp 5 Hút mỡ vùng Bikini
Phụ nữ / 29 tuổi
Lượng hút mỡ: 4000 mL
Người phụ nữ này đã hút mỡ vùng bikini. Các nếp gấp của da không phải do giảm độ đàn hồi của da, mà là do sự tăng cân quá nhanh. Các nếp gấp da này đã được giải quyết sau khi hút mỡ. Có thể nhìn thấy các vết tăng sắc tố da từ vùng bikini. Bệnh nhân đã đi tuần trăng mật 3 tháng sau khi phẫu thuật (Hình 5.86, 5.87 và 5.88).
Trường hợp 6 Hút mỡ vùng bụng-bikini + vàng nách trước và nách sau
Phụ nữ / 28 tuổi
Lượng mỡ hút: 2800 ml
Trường hợp này cho thấy:có thể thực hiện bằng hút mỡ ở vùng bụng và các các vùng khác cùng một lúc (Hình 5.89 và 5.90).
Không có vết bầm sau khi hút mỡ, nhìn thấy một đường eo thon ngay lập tức.
Hình 5.76 Trước khi phẫu thuật với thiết kế (Mặt trước)
Trường hợp 7 Hút mỡ vùng bụng
Tuổi: 50 tuổi
Chiều cao: 163 cm
Trọng lượng: 91 kg
Trọng lượng cơ: 50,5 kg
BMI: 37,9 kg
Trọng lượng mỡ trong cơ thể: 41,5 kg
Độ dày mỡ: vùng bụng trên 4,7 cm, vùng bụng dưới 4,5 cm
Lượng mỡ hút: 5200 ml
Kích thước 3 vòng trước phẫu thuật : 105/110.5 /117 (Hình 5.91)
Kích thước 3 vòng sau phẫu thuật: 96/100.5 / 102 (Hình 5.92)
Trường hợp 8 Hút mỡ bụng + phẫu thuật tạo hình thành bụng mini (Hình 5.93).
Sau khi hút mỡ bụng, tôi đã tiến hành phẫu thuật tạo hình vùng bụng mini, điều này có thể giúp loại bỏ vết sẹo vết mổ ở phần C.
4 Hút mỡ đùi và mông
Hút mỡ đùi 360°, Lượng mỡ hút 2700 mL,1 năm sau khi phẫu thuật
Người phụ nữ trong hình 6.1 này làm việc như một người mẫu. Cô đã trải qua phẫu thuật hút mỡ vùng đùi để ghép mỡ ngực. Chu vi đùi trước khi phẫu thuật là dưới 50 cm, rất mỏng. Tuy nhiên, lượng hút mỡ lấy từ đùi của cô là 2700 ml.
Trường hợp này cho thấy kết quả hút mỡ đùi bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ cơ vùng đùi và mỡ ở đùi chứ không phải do chu vi vòng đùi.
Đường đùi mong đợi, lượng hút và tìm ra kích thước đùi có thể giảm đi khi kiểm tra hình dạng đùi, với sự hiểu biết rất tốt về cấu trúc giải phẫu vùng đùi. Hút mỡ vùng đùi và mông có thể tiến hành cùng nhau, có tính đến hình dạng mông.
Hình 6.2 cho thấy vùng bị xơ dính. Bác sĩ phẫu thuật không cần quá thận trọng về các vùng có độ bám dính cao, nhưng có thể yêu cầu hút tích cực trong một số trường hợp, có tính đến hình dạng cơ thể của bệnh nhân.
Ví dụ, nếu vùng cơ gân kheo bị phình ra khi nhìn từ phía sau, thì vùng này cần tiến hành hút tích cực hơn các vùng khác, ngay cả những vùng có ít độ bám dính và ít mỡ. Do đó, vùng có độ bám dính này chỉ nên được ghi nhớ để tham khảo.
Chụp ảnh
Hình ảnh cần được chụp trước và sau từ nhiều góc độ khác nhau (Hình 6.3). Hình ảnh được chụp với các bệnh nhân quay góc 45°. Dễ dàng so sánh các bức ảnh trước và sau khi khoảng cách cỡ khoảng 20 cm giữa 2 chân.
Giải thích giải phẫu theo thiết kế và từng vùng
Các thiết kế cho vùng đùi và mông thể hiện trong Hình 6.4.
Vùng trước đùi
Đùi trước bao gồm vùng đầu gối (Hình 6.5). Vẽ thiết kế từ phần nếp gấp bẹn đến đầu gối. Trong trường hợp trước đùi, nếu đánh dấu chia nó thành bốn vùng, việc mỡ hút thậm chí có thể thực hiện ở trước đùi này.
Trong trường hợp trước đầu gối, da có thể gấp lại phía trên bắp chân trước và do đó mỡ dường như phình ra. Sự phồng này cần được phân biệt rõ ràng là có liên quan đến mỡ hoặc do da chảy xệ và nên giải thích trước cho bệnh nhân. Phải đánh dấu trên thiết kế ở vùng phồng ở phía trên đầu gối.Vùng rộng lớn đã đánh dấu bằng một đường màu đỏ cho thấy đó là cơ thẳng đùi, là 1 phần của cơ tứ đầu đùi, là cơ nằm ở hai bên của phía trước đùi. Vùng nhỏ được đánh dấu bằng một đường màu đỏ cho thấy rằng nên có lực hút tối thiểu ở vùng này, vì nhiều bệnh nhân có chỗ hõm ở điểm bắt đầu của cơ này.
Khi thực hiện kiểm tra trên USG, hầu hết bệnh nhân có độ dày mỡ trung bình khoảng 1,5 cm. Có thể được thực hiện phẫu thuật hút mỡ khi độ dày vượt quá 1,5 cm.Khi tiến hành hút mỡ ở trước đùi, mỡ cần được hút từ vùng giữa đùi là chủ yếu, làm cho đùi trông bớt phình ra ở phía trước hơn.
Vùng mặt trong đùi
Cơ tứ đầu đùi là cơ bắt đầu từ trước đùi đến 2 bên đùi và cơ này bao gồm cơ thẳng đùi, cơ may và cơ rộng ngoài. Có một vùng rỗng giữa cơ khép dài đi về phía trong của đùi và cơ khép mông. Vùng này gọi là rãnh trong đùi hoặc vùng lõm đùi.
Khi tiến hành hút mỡ ở mặt trong đùi (Hình 6.6), có thể có sự bám dính nếu hút quá nhiều ở vùng giữa đùi và mặt trong của đùi. Nếu bệnh nhân có một vùng bị lõm đặc biệt nào đó, thì nên đánh dấu vùng này bằng những dấu gạch chéo khi thiết kế.
Nếu đùi nâng lên về phía trước, thì lượng mỡ ở vùng phía trên của mặt trong đùi có thể lộ ra. Vùng trên của mặt trong đùi giữa thì đánh dấu trong vòng tròn theo phân bố mỡ
Mỡ phình ra ở trên đùi được nối với vùng trên của đùi trước.
Vùng phình này không bằng phẳng. Đây là vùng đại diện khi đùi bị cong. Ngay cả khi thực hiện hút toàn bộ lớp mỡ để làm cho phần trên của mặt trong đùi sẽ xẹp xuống sau khi hút mỡ (Hình 6.7 và 6.8). Tuy nhiên, nếu hút quá nhiều mỡ ở lớp nông, sẽ có thể hình thành các nếp nhăn da. Nếu chỉ hút mỡ ở lớp sâu, vùng này có thể bị phồng lên. Do đó, vùng này là vùng khó hút nhất trong hút mỡ vùng đùi.
Dự kiến là có nhiều mỡ mặt trong của đầu gối. Vùng này sẽ đánh dấu bằng một vòng tròn tùy thuộc vào sự phân bố mỡ.
Mặt sau đùi
Đây là vùng mỡ nằm bên dưới hông; khi có quá nhiều mỡ, trông đùi như quả chuối) và vùng kheo (bao gồm cả cơ nhị đầu đùi) nằm bên dưới lớp mỡ đó. Các gân ở vùng kheo cần đánh dấu đầu tiên.Có thể có một chỗ hõm hoặc đường viền nằm trong ranh giới trong như quả chuối này và điều này cần phải đánh dấu.
Trong hầu hết các đùi của người châu Á, không có nhiều mỡ trong vùng trông như quả chuối. Nếu có một lượng lớn mỡ ở đó, nên hút mỡ ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên, nếu có ít mỡ hoặc mỡ vừa phải, thì tốt hơn là không tiến hành hút mỡ ở vùng này.
Nhiều bệnh nhân than phiền rằng có một lượng lớn mỡ ở đó. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, hiện tượng này là suy nghĩ thoáng qua. Nên giải thích cho bệnh nhân về lượng mỡ thực tế trước khi phẫu thuật.
Mặt ngoài đùi
Trong vùng này, thường được gọi vùng gồ ra như yên ngựa, có nhiều mỡ nhất và đánh dấu bằng một vòng tròn (Hình 6.10;. Vùng bên dưới này đánh dấu là một vòng tròn nhỏ.
Ở giữa cơ tứ đầu đùi, đó nằm ở phía ngoài của mặt trước
đùi và phía ngoài của cơ nhị đầu đùi, nằm ở sau đùi, có một lỗ hõm đánh dấu bằng một dấu gạch chéo
Nếu thực hiện hút quá mức ở đây, phía mặt ngoài của đùi sẽ bị lõm xuống. Điều này nên đánh dấu thận trọng trên thiết kế.
Khi nâng chân lên, ranh giới của hai cơ này rõ ràng có thể đượcphân biệt với phía ngoài của đùi. Khi hoàn thành quá trình hút mỡ đùi phía ngoài đùi, vùng hõm có dấu gạch chéo sẽ mở rộng ra toàn bộ mặt ngoài đùi.
Cơ tứ đầu đùi, cơ nằm ở mặt trước đùi và cơ nhị đầu đùi, cơ nằm ở mặt sau đùi, là nhìn thấy rõ, vì mỡ giữa hai cơ này sẽ được hút ra.
Như thể hiện trong bản vẽ của tôi, khi bệnh nhân nằm nghiêng, vùng được đánh dấu trở nên cao hơn và có hiện phình ra giả.
Như thể hiện trong bản vẽ của tôi (Hình. 6.11 và 6.12), nếu đùi quay nhiều hơn, hiện tượng phình giả sẽ nhìn rõ ràng hơn
Vùng nối giữa mông và mặt ngoài đùi
Trong trường hợp thiết kế cho mông, mặt ngoài của mông phải vẽ đánh dấu trước và sau đó thiết kế vẽ sao cho vùng nhô ra nhiều nhất phải ở giữa. Một số bác sĩ hiểu nhầm rằng họ nên hút mỡ từ một vùng dưới hông đến lớp mỡ ở nông và do đó tạo thêm dấu vết tại vùng này. Điều này là rất sai, và kiểu hút này có thể gây ra mông chảy xệ.
Khi con người già đi, mông chùng xuống do trọng lực, như các dây chằng nghi giữ của Jacque bị thoái hóa.
Hình dạng đại diện của mông như thể hiện trong hình 6.13:(a) Mông và đùi được phân biệt rõ ràng. Vùng mấu chuyển của xương đùi trông sẽ lõm xuống. Hút quá nhiều mỡ ở vùng này có thể gây ra hiện tượng lõm xuống nhiều.(b) Hai bên của mông kết nối với mặt bên ngoài của đùi. Mấu chuyển lớn của xương đùi trông không lõm.(c) Những dạng cơ thể như vậy thì rất khó phân biệt giữa mông và đùi.6.3 Vô trùng và vị trí bệnh nhân trước phẫu thuật
Chuẩn bị cho ca phẫu thuật hoàn tất ở bệnh nhân trong (Hình 6.14). Bệnh nhân nên được vô trùng từ vai đến chân bằng cách sử dụng potadine.
Truyền một đường truyền tĩnh mạch bảo đảm ở phía mu bàn tay bệnh nhân. Dịch truyền tĩnh mạch (tôi chủ yếu sử dụng D / W 500 mL) trong quá trình phẫu thuật nên được tiêm dưới 100 ml / giờ.
Dung dịch tumescent đã tự làm tăng thể tích tuần hoàn. Nên tránh truyền nước qua đường tĩnh mạch để làm tăng thể tích tuần hoàn.
Thiết kế phòng phẫu thuật
Vị trí các dụng cụ phẫu thuật nằm trên xe đẩy ở phía bên phải của bàng mổ (Hình 6.15). Dụng cụ phẫu thuật, thiết bị hút EVA và bơm tiêm dung dịch tumescent nằm ở phía bên trái của bàn mổ.Cần lưu ý rằng các dụng cụ phẫu thuật và ống silicon sẽ bị tách ra khỏi bàn dụng cụ (Hình 6.16).
Cần chuẩn bị thêm ống hút, săng vô trùng, gạc đã vô trùng, hộp đựng potadine, mes và kéo. Hai ống hút có chiều rộng 4 mm và chiều dài 47 cm và một ống hút dài 52 cm, và một ống hút rộng 3 mm.
Dung dịch Tumescent
Nước muối sinh lí 1L + epineph-rine 1.0 A + 30 mL lidoocaine 2%+ bicarbon-ate 10 mL
Toàn bộ đùi: sử dụng trung bình 3000 mL
Mông: sử dụng trung bình 500 -> 1000 mL
Mặt ngoài đùi hoặc mặt trong đùi: 1500->2000 mL cho mỗi đùi
Hầu như không có chảy máu trong quá trình hút mỡ đùi. Sử dụng 1 ống epinephrine là đủ. Thực hiện tiêm dung dịch tumes-cent 30 phút trước khi phẫu thuật và cần giữ ấm. Nên tránh vết tên của điều dưỡng lên chai dung dịch tumescent để tránh sử dụng nhầm lẫn với dung dịch nước muối bình thường
Hình 6.17 so sánh hai vùng: (A) một vùng có da trắng hơn do tiêm dung dịch tumescent vào một lớp mỡ quá nông. (B) Vùng có da ít trắng nơi dung dịch tumescent được tiêm vào đúng cách.
Khi tiêm dung dịch tumescent vào quá gần da như trong A, khả năng hút mỡ từ lớp bề mặt nông sẽ tăng lên và điều này có thể gây ra sự bất thường của da.
Một số bác sĩ nghĩ rằng sau khi tiêm dung dịch tumescent thì da cần phải chuyển sang màu trắng để sẽ ít chảy máu trong quá trình hút mỡ. Trong trường hợp (B), dung dịch tumescent không được tiêm quá nhiều đến nỗi da phải chuyển sang màu trắng. Tuy nhiên, có ít chảy máu và bầm tím.
Không cần phải tiêm dung dịch tumescent ở lớp quá gần da, vì hút mỡ nên để lại hơn 5 mm lớp mỡ dưới da. Lý do chảy máu và bầm tím trong quá trình hút mỡ là do khi thực hiện hút mỡ ở những vùng mà dung dịch tumescent được tiêm đủ vào lớp mỡ sâu, gần với cơ (Hình 6.18).
Hình 6.19 cho thấy tiêm dung dịch tumescent rất gần da. Có thể thấy rằng da phồng lên ngay lập tức sau khi tiêm dung dịch tumescent. Không nên tiêm dung dịch tumes-cent theo cách này.
Gây mê
Tôi chủ yếu sử dụng thuốc gây mê cho bệnh nhân ngủ bằng propofol. Tôi bắt đầu gây mê bằng ketamine 0,4 mL + propofol 7 ->8 mL. Sau đó, tôi tiêm propofol cách nhau 4 phút. Có thể tiêm thêm ketamine 3->5 lần trong khi phẫu thuật. Tôi không sử dụng thuốc mê liên tục từ bơm điện propofol.
Các phẫu thuật hút mỡ có thể thực hiện dưới gây mê toàn thân. Nếu bệnh nhân không muốn gây mê toàn thân, thì chúng ta có thể tiến hành phẫu thuật dưới gây tê tại chỗ.
Gây mê toàn thân không nên sử dụng rộng rãi, vì nó có thể gây chảy máu do hiệu quả tác dụng co mạch ở các vị trí khác nhau trên bệnh nhân là không giống nhau trong khi phẫu thuật. Thuyên tắc mỡ ở phổi có thể dễ dàng xảy ra ở đùi khi gây mê toàn thân, mặc dù đây là một biến chứng hiếm gặp. Khi thực hiện hút mỡ đùi, nên tránh gây mê toàn thân 6.7 Vùng vết rạch da
Thực hiện các vết rạch da tại đường nếp lằn mông, mặt ngoài mông và ở giữa xương chậu (Hình 6.20 và 6.21). Trong trường hợp ở vùng đùi trước, nên rạch một đường bên trong vùng bẹn và bên ngoài vùng bẹn. Có thể có một số trường hợp thực hiện vết rạch da ở phía trong đầu gối. Tôi không rạch ở phần dưới đùi trong hầu
Kích thước của vùng vết rạch da khoảng 3 mm là đủ. Khâu vết rạch da bằng cách sử dụng Ny-lon 5/0 sau khi phẫu thuật (Hình 6.22). Vùng vết rạch da nằm ở 2 bên hông thì hay gây ra biến chứng. Điều này là do có sự cọ sát từ việc mặc quần áo.
Trường hợp này cho thấy vết sẹo quá phát to nhất mà tôi từng gặp phải trong 15 năm phẫu thuật. Bệnh nhân này đã hút mỡ 2 năm trước. Vẫn còn một vết sẹo quá phát rất to ở vùng rạch da 2 bên hông, vết rạch da các vùng khác thì bình thường (Hình 6.23).
Tôi đã tiến hành một phẫu thuật để loại bỏ vết sẹo này (Hình 6.24).
Phương pháp rạch
Dùng mes để thực hiện vết rạch da dài khoảng 3 mm. Rạch da và mô dưới da, nằm dưới vết rạch da, quan trọng hơn kích thước vết rạch da. Điều này là do ống hút
có thể dễ dàng đi qua vết rạch da. Tôi dùng kéo tách rộng thêm vết rạch da 3 mm và làm rộng kích thước vết rạch ở lớp mỡ dưới da.Tôi khâu vết mổ ngay sau khi phẫu thuật và để bệnh nhân mặc quần áo bó ngay lập tức. Không có nhiều dung dịch tumes-cent còn sót lại bên trong đùi sau khi phẫu thuật. Vùng đùi thì sẽ ít chảy máu so với các vùng khác. Do đó, việc khâu vết mổ ngay lập tức là điều nên làm. Dung dịch tumes-cent không cần ép vắt ra sau khi phẫu thuật.
Tôi không khuyến khích phương pháp ép bimodal đã có từ trước, đó là dẫn lưu mở bằng cách sử dụng một miếng băng ép thấm nước và băng lên vết mổ. Tôi cũng đã sử dụng băng ép lên phẫu thuật hút mỡ 15 năm trước. Theo kinh nghiệm của tôi, tôi có thể nói rằng có nhiều nhược điểm hơn ưu điểm trong việc này. Một số bệnh nhân cảm thấy khó chịu vì chảy quá nhiều dịch khi về họ nhà và sự bất tiện của họ và họ sẽ đến phòng khám một ngày sau khi phẫu thuật. Bất thường ở da do băng ép cũng là một trong những nhược điểm.Một điểm rõ ràng là nó đủ để khâu vết mổ ngay sau khi phẫu thuật và mặc quần áo bó với áp lực vừa phải.
4.1 Quy trình phẫu thuật
Tiêm dung dịch tumescent
Sử dụng phương pháp MDMP
Phương pháp đa hướng đa vị trí (MDMP) có nghĩa là tôi tiêm dung dịch tumescent theo nhiều hướng
khác nhau và tôi sử dụng nhiều vị trí phẫu thuật đa dạng để tiêm dung dịch tumescent.
Điều quan trọng nhất là tiêm dung dịch tumescent vừa đủ phải khuếch tán đến lớp mỡ sâu nhất gần lớp cơ, có thể gây chảy máu, và nên tránh tiêm dung dịch tumescent quá gần da.
Trong trường hợp hút mỡ đùi, có thể hút mỡ màu vàng mà hầu như không chảy máu ngay sau khi tiêm dung dịch tumescent, và lượng dung dịch mỡ hút ra rất nhỏ.Đầu tiên, tôi tiêm dung dịch tumescent vào đùi phải. Khi tiêm dung dịch tumescent vào mặt ngoài đùi, đầu tiên, dung dịch tumescent cần phải tiêm vào vùng sâu nhất cho đến khi cảm giác nhưphát hiện đầu ống tiêm chạm vào cân cơ (Hình 6.25).
Nếu đầu tiên, tiêm dung dịch vào lớp mỡ quá nông, thì sau đó khi tiêm dung dịch vào lớp mỡ sâu sẽ trở nên khó khăn hơn. Ở vị trí nằm sấp, mỡ ở mặt ngoài đùi đi xuống dưới đùi; do đó, mỡ này cần phải được giữ lại với nhau và tiêm dung dịch tumescent vào lớp mỡ này.Hơn nữa, khi tiêm đủ dung dịch tumescent thì phải nên tiêm xuống tận vùng gần đầu gối. Nếu ống can-nnula để tiêm dung dịch được uốn cong theo hình dạng đùi, thì dung dịch tumescent có thể dễ dàng tiêm vào bề mặt cong, nằm cách da đều hơn so với sử dụng ống can-nula thẳng.
Đầu tiên, tiêm dung dịch tu-mescent theo nhiều hướng có thể thông qua vị trí rạch nằm ở phía ngoài đùi. Sau đó, tiêm dung dịch tumescent theo tất cả các hướng từ chéo tới ngang có thể thông qua
vị trí vết rạch da ở nếp lằn mông (Hình 6.26).
Trong trường hợp mặt trong đầu gối, vì dung dịch tumes-cent cần phải được tiêm vào lớp mỡ ở lớp nông, nên dùng các ngón tay để nhấn lên da.
Trong trường hợp vùng mặt trên-trong của đùi, tiêm dung dịch tumescent qua cả hai vị trí vết rạch da ở nếp lằn mông và mặt ngoài đùi. Điều này là do lớp mà dung dịch tumescent cần tiêm vào nằm trong lớp mỡ trở nên khác nhau tùy thuộc vào hướng và vị trí đặt ống cannula, mặc dù thực hiện tiêm dung dịch ở cùng vùng phía trên của mặt trong đùi.
Tiêm dung dịch tumescent qua ba vị trí vết mổ ở hông (Hình 6.27). Đầu tiên, tiêm dung dịch tu-mescent qua mặt ngoài hông. Sau đó, thực hiện tiêm dung dịch qua vị trí vết mổ ở bên dưới đường hông theo hướng theo khớp hông cả bên trong và bên ngoài hông.
Cuối cùng, tiêm dung dịch thêm một lần nữa theo hướng tới vùng gồ lên của đùi thông qua vết rạch ở giữa khớp hông.
Phần lớn dung dịch tumes-cent cần tiêm vào lớp mỡ giữa vì 30% - 60% lượng mỡ sẽ hút từ hông.
Tiêm dung dịch tumescent vào đùi trái bằng phương pháp tương tự như được sử dụng ở đùi phải (Hình 6.28). Nếu tổng số dung dịch tumescent là 3000 ml trong quá trình hút mỡ ở đùi, thì 2000 mL được tiêm ở vị trí bệnh nhân nằm sấp.
Tôi tiêm dung dịch tumes-cent vào đùi với tốc độ 380 mL/phút. Đây là tốc độ tối đa của máy bơm tiêm dịch hiện có trên thị trường. Tôi cảm thấy rằng đây là tốc độ thoải mái nhất. Mỗi bác sĩ nên tìm một tốc độ tiêm phù hợp cho mình. Không có tốc độ nào là đúng.
Nếu tiêm dung dịch tumes-cent ở tốc độ này, tổng thời gian dành cho việc tiêm dung dịch tu-mescent cho toàn bộ đùi là khoảng 10 phút.
Hai vị trí vết rạch được thực hiện tại vùng bẹn trong trường hợp hút vùng đùi trước. Nếu bệnh nhân cực kỳ béo phì hoặc cao hơn 170 cm và có vùng đùi rất dài, thì rạch thêm một vị trí vết rạch da ở phía trong đầu gối. Thông qua hai vị trí vết rạch da, tiêm dung dịch tumescent vào chữ L và theo nhiều hướng khác nhau (Hình 6.29).
Trong trường hợp mặt trong và mặt ngoài của đùi, dung dịch tumescent có thể tiêm ở vụ trí bệnh nhân nằm sấp. Tuy nhiên, mỡ cũng lan xuống dưới. Do đó, cần phải tiêm thêm dung dịch tu-mescent.
Trong trường hợp đặc biệt ở mặt trong đầu gối, dung dịch tumes-cent cần được tiêm bằng cách sử dụng hai vị trí vết rạch da tại vùng bẹn để tiêm dung dịch tumescent khắp toàn bộ lớp mỡ (Hình 6.30)
Nếu đùi đổ lan ra ngoài, thì mặt trong của đùi trở nên phẳng. Ngoài ra, dung dịch tumescent có thể được tiêm vào lớp sâu của đùi trong thông qua vị trí vết mổ này.Thời gian trung bình thực hiện để tiêm 1000 ml dung dịch tumescent vào đùi trước là dưới 5 phút.
Điều này cho thấy việc tiêm dung dịch tumescent đã kết thúc (Hình 6.31). Da không trở nên trắng.
Điều này có nghĩa là dung dịch tumescent không được tiêm quá gần da. Có thể phải tránh hút mỡ ở lớp quá gần da
Hút mỡ bằng phương pháp MDMP
Một nguyên tắc chính của hút mỡ là thực hiện thao tác thay đổi bệnh nhân nhiều vị trí và bằng cách sử dụng các hướng khác nhau, có nghĩa là sử dụng phương pháp MDMP.
Hầu như không có chảy máu, ngay cả khi việc thực hiện hút mỡ từ lớp mỡ sâu do việc tiêm dung dịch tumescent đã được thực hiện vào lớp sâu trước đó. Nó là tốt để hút mỡ từ lớp mỡ sâu trong trường hợp ở vùng đùi.
Nhiều bác sĩ hỏi tôi có nên bắt đầu hút mỡ bắt đầu ở xa vị trí vết mổ hoặc gần vị trí vết mổ hơn không. Không có câu trả lời đúng.
Thứ tự của việc hút nên được đặt trước để rút ngắn thời gian phẫu thuật.
Trong trường hợp hút mỡ ở mặt ngoài đùi (Hình 6.32), tôi bắt đầu hút từ vùng gần hơn vị trí vết mổ, sau đó di chuyển ống cannula đến vùng xa nhất ngay lập tức,thực hiện hút một cách mềm mại. Sau đó, tôi tiến hành hút theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, tiến hành hút đến vùng gần hơn.
Để quyết định khi nào kết thúc việc hút ở mặt ngoài đùi, nên nhận biết được cảm giác là mỡ đã được đi vào ống hút. Nếu vùng đùi gồ lên, đó là vùng có nhiều mỡ nhất và sẽ biến mất sau khi hút, và nếu tạo ra vùng hõm ở giữa cơ tứ đầu đùi ở phía ngoài của mặt trước đùi và cơ nhị đầu đùi ở mặt sau đùi sẽ nhìn thấy gồ lên, sau đó thì kết thúc việc hút mỡ.
Rất tốt để hút mỡ bằng cách giữ mỡ chảy xệ cùng nhau khi mỡ bị sa xuống dưới (Hình 6.33). Khi hút ở vùng mặt sau đùi bao gồm cả vùng gân kheo, rất tốt là cố định da (Hình 6.34). Nếu da không cố định bằng lòng bàn tay, có thể có sự bất thường nhấp nhô trên da khi ống hút đi qua.
Có ít mỡ trong vùng gân kheo hơn trong vùng nhô lên như quả chuối. Hút càng nhiều mỡ càng tốt trong vùng này để tránh sự xuất hiện phình ra sau hút mỡ.
Vùng đùi gần đầu gối có ít mỡ hơn và vùng này cần ấn bằng ngón tay để dẫn truyền lực hút của lớp mỡ nông (Hình 6.35).
Có nhiều bệnh nhân có một lượng lớn mỡ ở mặt trong đầu gối (Hình 6.36). Đây cũng là một vùng lộ nhiều ra bên ngoài; do đó,
cần phải thực hiện hút mức độ tối đa ở đây. Có thể thực hiện hút hết mỡ thông qua vị trí vết mổ tại đường nếp lằn mông ở phía sau đùi và vị trí vết mổ ở vùng bẹn của vùng trước đùi.
Trong trường hợp phía trong đùi, ngay cả cần tiến hành ở việc hút mỡ tư thế bệnh nhân nằm ngửa, nằm sấp và nằm nghiên (Hình 6.37).
Không nên thực hiện hút mỡ quá nhiều tại một vị trí. Mỡ nên được hút ra khi xem xét lớp mỡ bị sưng lên do tiêm dung dịch tumescent.
Có thể có dính trên da và các nếp nhăn da sau phẫu thuật nếu hút mỡ ở lớp quá nông. Cũng có thể có sự chảy xệ của mông, làm sâu hơn nếp gấp mông hiện có và hình thành nếp gấp mới mới sau khi hút mỡ.
Nên tránh hút mỡ ở một lớp quá nông hoặc hút quá nhiều ở vùng hình quả chuối để tránh các biến chứng nêu trên.
Tiến hành hút mỡ ở mông có xem xét các hình dạng và khối lượng của mông mà bệnh nhân mong muốn. Nhiều bệnh nhân hài lòng khi thực hiện hút vừa phải ở phía ngoài hông (Hình 6.38).
Có nhiều hình dạng của mông: Mặt ngoài mông có thể kết nối với vùng gồ lên của đùi. Xương chậu rộng lớn ở hai bên. Các mặt ngoài của hông bị chùng xuống, làm cho vùng gồ lên của đùi xuất hiện chảy xệ do làm suy yếu độ đàn hồi của da ở mông và đùi.
Trong những trường hợp này, nên hút đủ lượng mỡ phình ra nối giữa mông và phần phình ra của đùi. Hút mỡ từ giữa xương hông theo hướng tới vùng gồ ra của đùi cũng là một phương pháp tốt.
Tôi khuyên bệnh nhân nên mặc quần áo bó chặt sau phẫu thuật nếu độ đàn hồi của da không tốt.Khi hút mỡ ở vùng gồ ra của đùi, nếu bác sĩ thực hiện thao tác quay trở lại phía đối diện để tiếp tục hút, thì có thể tạo ra một đường đùi mượt mà hơn (Hình 6.39). Điều này là do vị trí đầu tiên của ống hút bên trong lớp mỡ có thể khác nhau tùy thuộc vào hướng đi của ống cannula. Do đó, có thể thực hiện hút mỡ ở những vùng mà việc hút mỡ chưa hoàn thành trước đó.
Cần thực hiện việc hút bổ sung từ vị trí bệnh nhân nằm sấp ở mặt ngoài trước đó đã hút ở vị trí nằm ngửa (Hình 6.40).
Trong trường hợp các mặt ngoài của đùi trước ở tư thế bệnh nhân nằm ngửa, phần cuối của ống hút có thể di chuyển về phía bề mặt da, gây ra hút mỡ ở một lớp quá nông (Hình 6.41). Điều này có thể gây ra sự bất thường nhẹ ở vùng này sau đó; do đó, cần hết sức cẩn thận trong vùng này (Hình 6.42).
Có nhiều nếp gấp ở trước đầu gối khi da chùng xuống (Hình 6.43). Tìm ra nó và hút một lượng mỡ vừa phải là tốt nhất. Trong hầu hết các trường hợp, vùng phía trên của mặt trước đầu gối có xu hướng bị lõm xuống. Do đó, cần chú ý rằng lỗ lõm này không được gây ra thêm sau khi hút.
Trong trường hợp vùng đùi trong, thực hiện việc hút mỡ cần phải thông qua hai vị trí vết rạch tại vùng bẹn (Hình 6.44). Đây là vùng khó khăn nhất để hút mỡ trong đùi. Tùy thuộc vào độ đàn hồi của da, có thể xuất hiện phồng lên hoặc xẹp xuống tạo nếp nhăn nhỏ có thể hình thành sau khi hút mỡ.
Vùng này là vùng cong nhất đại diện ở đùi. Nhiều vị trí hút là cần thiết, vì việc thực hiện hút mỡ ở bề mặt cong (Hình 6.45). Nếu hai chân bệnh nhân nằm nghiêng sang một bên hoặc bệnh nhân nằm ở tư thế nằm nghiên, thì mặt trong của đùi trở thành một mặt phẳng, cho phép hút dễ dàng hơn.
Trong trường hợp phí trong đùi, có thể hút mỡ bằng cách bóp mỡ lại bằng các ngón tay. Nếu da được nâng lên, thì bác sĩ phẫu thuật có thể cảm nhận được lượng mỡ còn lại.Đôi khi, tôi hút mỡ bằng cách xoay người bệnh sang một bên. Khi có một lượng mỡ lớn ở vùng gồ lên của đùi, tôi tạo dáng cho bệnh nhân theo cách này (Hình 6.46).
Hình 6.47 cho thấy hút thêm ở vùng dưới của mặt ngoài đùi bằng cách xoay bệnh nhân sang nằm nghiêng.
Hình 6.48 cho thấy mỡ được hút. Hút lượng dịch màu đỏ là nhỏ, và chủ yếu là hút mỡ màu vàng.
Mặc quần áo sau phẫu thuật
Hình 6.49 và 6.50 cho thấy chỉ khâu là chỉ nylon 5.0. Băng ép hút nước trên vết mổ và cố định bằng băng keo.
Trong trường hợp phần bên trong của đùi, khi bệnh nhân mặc quần áo bó, điều này có thể không ép chặt hoàn toàn với vùng bẹn, khiến da cuộn lên. Vùng này có thể phình ra. Hơn nữa, ở những bệnh nhân có độ đàn hồi da yếu, da có thể bị chảy xệ; do đó, phải dùng băng thun trước và sau đó nên mặc quần áo bó ép chặt hoặc dẫn lưu mở với băng ép là không cần thiết. Nó là đủ để mặc quần áo bó
Nếu dùng bột phấn trẻ em cho bệnh nhân trước khi mặc quần áo bó, nó sẽ giúp ngăn ngừa tổn thương da và làm cho dễ dàng hơn để mặc vào.Sau khi hút mỡ đúng cách và vừa phải, các lớp mỡ có thể bị sưng lên với dung dịch tumescent, nhưng không quá nhiều. Do đó, băng ép chặt hoặc dẫn lưu mở với băng ép là không cần thiết. Nó là đủ để mặc quần áo bó ngay sau khi phẫu thuật.
Hiệu quả của quần áo bó có thể kéo dài khi kích thước của quần áo bó giảm đi trong 2->3 tuần.
Mặc quần áo bó trong một tháng có thể cho kết quả khả quan.
Hình 6.51 cho thấy một bệnh nhân mặc quần áo bó. Quần cần phải kéo lên xuống để tránh đường gấp sẽ hình thành bên dưới mông.
Sử dụng EVA
Một số bác sĩ sử dụng thiết bị hút mỡ EVA thực hiện các thao tác với công suất rung 3.0. Trong một vài trường hợp, tiến hành các phẫu thuật hút mỡ với công suất cỡ 2.5.Chọn công suất rung tùy thuộc vào từng cá nhân. Họ có thể chọn nó theo sở thích của họ. Tôi thích sử dụng độ rung động mạnh cỡ 4.0, lực hút -0.8 và đường kính cannula là 4 mm.Điều này có thể thực hiện khi bác sĩ phẫu thuật đã quen với độ rung động mạnh của EVA khi sử dụng thiết bị này trong một thời gian dài.
Thời gian hút mỡ trung bình cho cả đùi sử dụng EVA là khoảng 1 h.
4.2 Xử lý hậu phẫu
Mặc quần áo: vào ngày thứ ba
Cắt chỉ: vào ngày thứ bảy
Sau 1 tuần: dùng siêu âm hội tụ
Sau 2 tuần: Dùng máy điều trị săn chắt da
Sau 3 tuần: có thể dùng thêm (RF) 3 cực + kích hoạt cơ với tần số thấp.
Tôi cho bệnh nhân dùng sáu buổi xử lý sau phẫu thuật. Quản lý RF lưỡng cực đang sử dụng nhiệt sâu ở 42 ->44°C. Nếu áp dụng cho những vùng da bị cứng sau hút mỡ, bệnh nhân có thể cảm thấy thoải mái, nhưng độ cứng trở nên tồi tệ hơn. Đây là lý do tại sao tôi không khuyên bạn nên dùng RF lưỡng cực.Siêu âm hội tụ xuống sâu đến 10 cm trong lớp mỡ, giúp phục hồi độ cứng sau khi hút mỡ.Bí quyết điều trị săn chắc da là cảm giác đau có thể giảm bằng cách giữ da ở một đầu và bắt đầu điều trị ở phía đối diện.
Bác sĩ phẫu thuật có thể cảm thấy sự hữu ích của điều trị thêm sau phẫu thuật nếu anh ta hoặc cô ta thực sự quan tâm điều trị đến bệnh nhân (Hình 6.52).
Thời gian thực hiện
Thời gian truyền dung dịch tu-mescent: 10 - 20 phút cho toàn bộ đùi
Thời gian hút mỡ: 60 phút cho toàn bộ đùi
Thời gian hút mỡ ở phía ngoài đùi bao gồm vùng gồ lên: 20 phút
Số lượng hút mỡ
Trong trường hợp bệnh nhân có chiều cao 160 cm và nặng 60 kg, lượng mỡ trung bình là 2500->3000 mL.
Độ dày mỡ trung bình khi đo bằng siêu âm USG:
Vùng có nhiều mỡ nhất ở phía ngoài đùi: 4.0 -5.0 cm
Vùng dưới-ngoài đùi: 2,0 cm
Phía trong đùi (đo từ phía sau): 2,5 cm
Phía trước đùi: 1,5 cm
Tôi đo độ dày mỡ của bốn vùng này bằng siêu âm USG, và giải thích cho bệnh nhân về lượng mỡ dự kiến sẽ hút và chu vi đùi sẽ giảm đi.Nếu lượng mỡ hút trung bình là 2500->3000 mL, thì chu vi của đùi sẽ giảm trung bình là 2 ->3 in. tại vùng to nhất của đùi Lượng mỡ hút tối đa từ đùi và mông mà tôi thu được là 12.000 mL từ một phụ nữ nặng 120 kg.
Có thể có trường hợp lượng hút từ toàn bộ vùng đùi dưới 1000 mL. Trong trường hợp này, nếu bác sĩphẫu thuật giải thích đầy đủ cho bệnh nhân về kết quả mong đợi của ca phẫu thuật, thì bệnh nhân cũng có thể hài lòng với ca phẫu thuật.
4.3 Biến chứng thẩm mỹ của hút mỡ
Trường hợp 1 Có sự bất cân xứng nghiêm trọng giữa đùi bên trái và đùi bên phải (Hình 6.53). Trong trường hợp đùi phải, đã tiến hành hút ra một lượng mỡ tương đối lớn ở vùng gồ lên của đùi, dẫn đến xuất hiện phình ra ở 2 bên mông và vùng kheo. Đây có thể là một trường hợp phải phẫu thuật lại.
Trường hợp 2 Thực hiện mút mỡ quá nhiều ở toàn bộ đùi, gây ra dính da xuống dưới. Trường hợp này thì không thể mổ lại.
Vùng hình quả chuối dưới mông cho thấy nhiều đường đã hình thành sau khi hút mỡ quá nhiều (Hình 6.54). Không có phương pháp để điều trị cho những trường hợp như thế này. Có sự mất cân bằng giữa đùi và mông, vì ở mông không thực hiện hút mỡ.
Trường hợp 3 Trường hợp này cho thấy hút quá nhiều mỡ và hút không đều ở vùng gồ lên nhất của đùi (Hình 6.55). Đo độ dày mỡ bằng siwwu âm USG cho một vùng phía trên chỗ hõm là 3,15 cm và đối với vùng bị lõm là 1,42 cm (Hình 6.56). Do đó, vùng kheo dường như bị phình ra.
Trường hợp 4 Khi đo độ dày mỡ bằng USG thì bên trái nhỏ hơn 1,0 cm ở một số vùng. Hình 6.57 và 6.58 cho thấy biến chứng hút mỡ rất xấu: tăng sắc tố da, đường dưới mông rất xấu,mông không đối xứng và dính da trên toàn bộ đùi. Không thể mổ lại trường hợp này.
Trường hợp 5 Một số đường hình thành bên dưới mông hoặc hình thành nhiều đường xấu (Hình 6.59)
Ảnh trước và sau phẫu thuật
Trường hợp 1 Phụ nữ 27 tuổi, lượng mỡ hút: 2500 mL, trước và sau phẫu thuật 6 tuần (Hình 6.60).Đùi trái, kích thước trước phẫu thuật: 59/55/42, kích thước sau phẫu thuật: 52/48 / 39,5.
Trường hợp 2 Phụ nữ 21 tuổi, số lượng mỡ hút: 3800 ml, trước và sau phẫu thuật 6 tuần (Hình 6.61).Đùi trái, kích thước trước phẫu thuật: 62/55/44, kích thước sau phẫu thuật: 55 / 49,5 / 39,5.
Trường hợp 3 Phụ nữ 29 tuổi, lượng mỡ hút: 3500 mL, trước và sau phẫu thuật 7 tuần (Hình 6.62).Đùi trái, kích thước trước phẫu thuật: 57,5 / 52 / 41,5, kích thước sau phẫu thuật: 51 / 44,5 / 37,5.
Trường hợp 4 Phụ nữ 29 tuổi, lượng mỡ hút: 12.000 mL, trước và sau khi hút mỡ ở đùi và mông (Hình 6.63).
5 Hút mỡ cẳng chân
Mức độ hài lòng của hút mỡ cẳng chân thấp hơn so với các vùng khác vì cẳng chân có lượng mỡ ít hơn so với lượng cơ bắp.
Trong hầu hết các trường hợp, ở cẳng chân có một lượng mỡ nhỏ. Tuy nhiên, nhiều phụ nữ vẫn muốn phẫu thuật hút mỡ cẳng chân vì họ muốn cẳng chân và mắt cá chân nhìn thon thả hơn.
Tác giả không khuyến khích hút mỡ cẳng chân đơn thuần vì hai chân dường như nằm trên một đường thẳng và cẳng chân cũng trông thon hơn nếu bệnh nhân hút mỡ đùi.
Chỉ định cho phẫu thuật hút mỡ cẳng chân thì phải tìm hiểu mức độ phát triển của cấu trúc cơ xương của bắp chân, vì mức độ hài lòng có thể thấp sau khi hút mỡ nếu cấu trúc cơ xương quá phát triển, mặc dù có mỡ ở bắp chân.
Tôi đo độ dày mỡ ở cẳng chân bằng siêu âm (USG). Tôi cân nhắc thực hiện hút mỡ cẳng chân nếu độ dày mỡ hơn 1,2 cm ở vùng có nhiều mỡ nhất khi bệnh nhân đứng và độ dày mỡ nếu hơn 1,5 cm trong tư thế nằm khi đó cơ cẳng chân căng cứng.
Tôi không thấy bất kỳ trường hợp nào mà cơ tam đầu cẳng chân ở phía sau cẳng chân và cơ 2 cơ mác ở mặt ngoài cẳng chân phát triển thì có thể hút mỡ thành công.
Trong trường hợp bệnh nhân có cơ cẳng chân phát triển, tôi thường tiến hành cắt thần kinh chọn lọc có xâm lấn chi phối cơ này. Nhưng bây giờ, tôi dùng chích botox để giảm sự phát triển của cơ này.Biến chứng thẩm mỹ lớn nhất của hút mỡ cẳng chân là vết sẹo để lại tại vị trí vết mổ vì vị trí vết mổ nằm ở vùng nhìn thấy.
Khi thực hiện hút mỡ cẳng chân, mỡ có thể được hút từ toàn bộ bắp chân, ngoại trừ mặt trước của cẳng chân với mắt cá chân hoặc từ mắt cá chân.Trong trường hợp hút mỡ mắt cá chân, bạn cần tiến hành hút từ phía mặt ngoài của gân Achilles đến một vùng bên dưới-trong của cơ tam đầu cẳng chân, tạo ra một đường tự nhiên.
Ảnh trước phẫu thuật
Hình ảnh, chụp xoay bệnh nhân 45° và bệnh nhân đứng trên đầu các ngón chân (Hình 7.1).
Thiết kế
Thiết kế để tiến hành hút trong toàn bộ cẳng chân ngoại trừ cẳng chân trước cẳng chân và mắt cá chân (Hình 7.2).Khi chỉ hút mắt cá chân, thực hiện hút ở vùng đã đánh dấu là phía mặt ngoài của mắt cá chân.
Gây mê
Gây mê để hút mỡ vùng bắp chân, tôi sử dụng thuốc gây mê cho bệnh nhân ngủ bằng propofol.Ở giai đoạn đầu của gây mê cho bệnh nhân ngủ, tôi bắt đầu bằng cách sử dụng ketamine 0,4 mL + propofol 7 ->8 mL.Propofol được tiêm xen kẽ cách nhau 4 phút.
Vô trùng
Toàn bộ chân được vô trùng bao gồm cả đùi và ngón chân bằng potadine. Trong trường hợp bàn chân có thể mang tất vô trùng.
Vị trí vết mổ
Cần phải có hai vị trí vết rạch ở phía sau bắp chân. Ở mắt cá chân, hai vết mổ có thể nằm ở cả hai bên của mắt cá chân, hoặc một vết mổ có thể nằm gần gân Achilles tùy thuộc vào hình dạng của mắt cá chân (Hình 7.3).
Nếu một vết rạch da bổ sung nằm ở phần phình ra nhất của bắp chân, việc hút mỡ bắp chân có thể thực hiện dễ dàng hơn. Tuy nhiên, tôi không rạch ở vùng này, vì vết mổ sẽ lộ ra và thu hút sự chú ý.
5.1 Quy trình phẫu thuật
Dung dịch Tumescent
Thành phần của dung dịch Tumes-cent như sau:
Nước muối sinh lí 1L + epineph-rine 1.0A + 30 mL lidocaine2%+ bicarbonate 10 ml
Toàn bộ bắp chân: tiêm khoảng 1500 ml dung dịch tumescent
Mắt cá chân: tiêm khoảng 500 ml dung dịch tumescent.
Vì cẳng chân có mỡ ít, nếu tiêm đủ dung dịch tumescent, thì nó sẽ đi vào toàn bộ lớp mỡ.
Không giống như vùng đùi, màu da của cẳng chân có thể trở nên trắng hơn sau khi tiêm dung dịch tumescent.
Nếu sử dụng ống cannula cong để tiêm dụng dịch Tumes-cent thì có thể dễ dàng để tiêm vào bắp chân.
Sử dụng thiết bị siêu âm phân giải mỡ
Khi chỉ thực hiện hút mỡ ở mắt cá chân, thì thực hiện hút mỡ khá dễ dàng với sự trợ giúp của thiết bị siêu âm (ULTRA-Z). Sử dụng ULTRA-Z trong ít hơn 5 phút là đủ để hút vùng mắt cá chân.
Sử dụng EVA
Trong trường hợp ở bắp chân, tôi thích sử dụng ống cannu-la khá mỏng với chiều rộng 3 mm. Tốt nhất là sử dụng một ống can-nula ngắn hơn 30 cm.
Nên tránh hút quá nhiều, vì có thể xảy ra da sẽ bám dính vào ống hút do vùng này ít mỡ. Trong trường hợp vùng cẳng chân có nhiều mỡ, tôi đã từng hút 2700 ml. Tuy nhiên, bình thường không dễ để hút hơn 500 mL.
5.2 Quản lý sau khi phẫu thuật
Mặc quần áo: vào ngày thứ ba
Cắt chỉ: vào ngày thứ bảy
Sau 1 tuần: dùng siêu âm hội tụ
Sau 2 tuần: điều trị thêm săn chắc da
Sau 3 tuần: có thể dùng thêm tần số vô tuyến (RF) ba cực + và kích hoạt tần số thấp (DMA)
5.3 Biến chứng
Không hài lòng với việc hút mỡ chưa hết
Không hài lòng với kết quả ngay cả khi hút hết mỡ
Tụ dịch, tụ máu hiếm xảy ra
Bầm tím có thể xảy ra
Gây tổn thương thần kinh
Không đối xứng
Vết sẹo
Da không đều, trong trường hợp bắp chân, thực hiện việc hút ở lớp mỡ quá nông. Do đó, cần hết sức cẩn thận vì có thể xảy ra tình trạng da bất thường.
Các trường hợp
Trường hợp 1 Ảnh trước và sau phẫu thuật Hình 7.4.
Trường hợp 2 Ảnh trước và sau phẫu thuật Hình 7.5.
6 Hút mỡ vùng vú phụ
Tỷ lệ lưu hành của bệnh vú phụ ở nách là 2 ->6%. Tuyến vú phụ cần phải được loại bỏ, vì có thể bị phồng tại chỗ và gây đau hiếm khi xảy ra.
Loại bỏ vú phụ có thể loại bỏ tỷ lệ ung thư biểu mô và u xơ tuyến vú, xảy ra ở tuyến vú phụ.
Vú phụ ở nách và sự tích tụ mỡ ở nách thì rất khó phân biệt rõ ràng.
Đọc dưới siêu âm (USG) bởi các chuyên gia vú và bác sĩ chẩn đoán X quang là rất quan trọng.
Hình 8.1 thì siêu âm cho thấy độdày của mỡ là 0,52 cm và nhu mô vú là 1,12 cm. Đây là một phụ nữ 45 tuổi có bộ ngực phụ bị nhô ra nhiều hơn sau khi sinh. Có một núm vú phụ đi kèm.
Tôi đã tiến hành hút mỡ bằng cách sử dụng ULTRA-Z và độ rung cực mạnh (EVA). Tôi đã tiến hành phẫu thuật cắt bỏ núm vú phụ (Hình. 8.2 và 8.3).
Trong các phòng khám, vú phụ ở nách có thể được phân loại và điều trị bằng các phương pháp tương tự như đối với vú to ở nam.
6.1 Phân loại vú phụ ở nách
Vú phụ ở nách hình thành do sự phát triển của nhu mô tuyến vú. Hình 8.4 cho thấy nhu mô tuyến vú phụ.
Vú phụ hình thành có cả nhu mô vú và tổ chức mỡ. Hình 8.5 cho thấy nhu mô tuyến vú phụ và tổ chức mỡ.
Hiểu sai vú phụ giả vì thừa nhiều mỡ dưới ULTRA-Z and EVA: Vùng nách không có nhu mô tuyến vú. Hình 8.6 cho thấy tổ chức vú phụ giả với tổ chức mỡ thừa.
Vú phụ 1 bên nách. Hình 8.7 cho thấy tổ chức vú phụ ở 1 bên.
Vú phụ với núm vú phụ. Hình 8.8 cho thấy vú phụ có núm vú.
Hơn 2 vú phụ ở 1 bên nách. Hình 8.9 cho thấy nhiều vú phụ
Trường hợp nhiều loại vú phụ
Hình8.10 cho thấy nhiều loại vú phụ.
6.2 Điều trị
Phẫu thuật cắt bỏ
Phương pháp này có thể gây ra sẹo nghiêm trọng. Nếu vú phụ nằm ở dưới nách, có thể để lại vết sẹo khoảng 10 cm. Thời gian phẫu thuật để lấy bỏ cả hai vú phụ ở nách là khoảng 1 giờ, khá dài.
Chọc hút làm giải phẫu bệnh
Một vú phụ nhỏ có thể được loại bỏ rất đơn giản bằng cách sử dụng dụng cụ chọc hút. Khi vú phụ lớn, không dễ dàng để loại bỏ nó hoàn toàn bằng cách sử dụng dụng cụ chọc hút.
Nếu da bị chảy xệ tại chỗ vì một vú phụ, thì có thể sẽ trông da chảy xệ hơn sau khi loại bỏ vú phụ bằng cách sử dụng dụng cụ chọc hút.
Phương pháp hút mỡ
Phương pháp này bao gồm tiêm dung dịch tumescent, phân giải nhu mô vú bằng thiết bị siêu âm nhũ hóa mỡ hoặc laser diode và hút cả mô mỡ và nhu mô vú ra ngoài cùng lúc bằng thiết bị hút mỡ.
Phương pháp này hiện đang được sử dụng bởi hầu hết các phòng khám. Tôi giải thích phương pháp phẫu thuật bằng thiết bị siêu âm phân giải mỡ (ultra-z) và EVAthiết bị hút mỡ
Nếu có núm vú phụ đi kèm với vú phụ, sau đó tiến hành phẫu thuật cắt bỏ và hút mỡ cùng một lúc.
6.3 Thiết kế trước phẫu thuật
Thực hiện thiết kế tại phần phình nhiều nhất của nách. Vúng thiết kế với vú phụ bằng một vòng tròn nhỏ, làm nổi bật vùng này (Hình 8.11).
6.4 Quy trình phẫu thuật và thời gian mổ
Thiết kế: 5 phút
Vô trùng và chuẩn bị mổ: 15 phút
Tiêm dung dịch tumescent: 5 phút
Sử dụng thiết bị siêu âm phân giải mỡ(ULTRA-Z): 3 ->5 phút
Hút mỡ và nhu mô vú: 10 phút
Tổng thời gian mổ trung bình: 20 phút
6.5 Gây tê
Tôi chủ yếu sử dụng thuốc gây mê cho bệnh nhân ngủ bằng propofol.
Tôi bắt đầu gây mê bằng ket-amine 0,4 mL + propofol 7->8 mL.
Sau đó, tôi tiêm propofol cách quãng Cách nhau 4 phút.
Khi sử dụng ketamine, vì thời gian mổ của vú phụ là ngắn, tổng cộng 1-> 2 mũi tiêm là đủ.
Tôi không sử dụng thuốc gây mê để bệnh nhân ngủ bằng bơm liên tục propofol.
Lý do cho điều này là thời gian phẫu thuật thực tế là 30->40 phút, thời gian ngắn. Hiệu quả gây tê tại chỗ là tốt với tiêm dung dịch tu-mescent vừa đủ.
Do đó, tốt nhất là duy trì chế độ ngủ bằng cách sử dụng thuốc tiêm propofol không liên tục.
Vị trí rạch da
Thực hiện một vết rạch da dài 3 mm tại đường gấp mặt trong phía trước của nách (Hình 8.12A) và một vết khác tại vùng giao nhau, nơi gặp nhau của đường nếp gấp cánh tay và bên dưới nách (Hình 8.13B). Khâu bằng nylon 5/0.
Vị trí bệnh nhân trong quá trình phẫu thuậtThực hiện tiêm dung dịch và hút mỡ cho bệnh nhân ở nhiều tư thế khác nhau (Hình 8.14).
Quy trình thực hiện
Dung dịch Tumescent
Pha dung dịch Tumescent
Nước muối bình thường 1 L + epinephrine 1,5A + 30 mL lido-caine 2% + bicarbonate 10 mL
Tôi thường sử dụng 400 ->500 mL.
Tôi sử dụng epinephrine 1,5A trong đó nồng độ tăng 50%. Nó là tốt để sử dụng 2 A. Sử dụng đủ dung dịch
Tumescent giúp giảm chảy máu và giảm đau.
Điểm quan trọng nhất là cần phải tiêm đủ dung dịch tumescent vào nhu mô vú trước.
Nếu trước tiên, ta tiêm nhiều dung dịch vào lớp mỡ bao quanh nhu mô vú, thì trong quá trình hút mỡ có thể sẽ hút được nhiều mô mỡ hơn nhu mô vú, gây ra tình trạng hút hút chưa hết nhu mô vú.
Sử dụng thiết bị siêu âm phân giải mỡ
ULTRA-Z là thiết bị siêu âm phân giải mỡ mạnh với tần số ấn định 50 Hz / 60 Hz và công suất tiêu thụ 300 VA.
Đặt đầu dò ULTRA-Z và đặt chế độ nguồn thành 100 (giá trị tối đa). Thông thường, người ta biết rằng sử dụng đầu dò ULTRA-Z cho 100 ml dung dịch tumescent trong 1 phút. Ít hơn thời gian này có thể là sẽ ổn.
Tôi sử dụng đầu dò UL-TRA-Z trong 2->3 phút cho mỗi nách trong trường hợp vú phụ ở nách.Khi sử dụng ULTRA-Z USG, có thể cảm thấy rằng những tổ chức cảng đầu ống hút sẽ giảm đi và ống cannula đẩy dễ dàng hơn bằng đầu dò ULTRA-Z. Đây có thể được coi là điểm kết thúc của việc sử dụng ULTRA-Z.
Sử dụng hút EVALàm loãng mỡ bằng độ rung cực mạnh (EVA) là trên thế giới chỉ có thiết bị hút rung không khí. Nó được tối ưu hóa để hút nhu mô vú, vì nó làm quay khoảng 3000 vòng trong mỗi phút.
Để thực hiện hút trong cả mô mỡ và nhu mô vú, công suất rung 4.0, lực hút −0.8 bar và sử dụng ống hút rộng 4 mm.
Hầu hết bệnh nhân cho thấy sự hài lòng với kết quả phẫu thuật với việc loại bỏ sạch hết mô mỡ và hút nhu mô vú thích hợp.
Việc hút nhu mô vú cần bắt đầu trước. Sau khi hút hết ở vùng này, sau đó hút mỡ ở nách.
Điểm mấu chốt là thực hiện hút bằng cách sử dụng phương pháp MDMP.
Chuẩn bị phòng phẫu thuật
Đối với một phẫu thuật tuyến vú phụ, phải có thiết bị siêu âm phân giải mỡ (ULTRA-Z) và thiết bị hút mỡ rung EVA.
Cần kiểm tra thiết bị trước khi phẫu thuật. Hai phần thiết bị này đặt ở phía bên phải của bàn mổ
Băng ép sau phẫu thuật
Sau khi phẫu thuật (Hình 8.15), khâu các vị trí vết mổ bằng sử dụng Nylon 5/0. Băng ép bằng loại băng bọt thấm nước và sau đó cố định bằng băng keo.
Bệnh nhân nên băng ép trong 24 giờ vào ngày sau phẫu thuật. Sau đó, bệnh nhân mặc quần áo bó trong khoảng 4 tuần.
Bệnh nhân không cần mặc quần áo bó trong 24 giờ. Chỉ cần mặc trong 12 ->16h là được vì có thể hiệu ứng đủ ép.
Trong trường hợp vú phụ bị chảy xệ, thì vùng da bị chảy xệ có thể cố định bằng băng thun sau khi phẫu thuật và bệnh nhân nên mặc quần áo bó.Trong hầu hết các trường hợp, da chảy xệ do nhu mô vú phụ thì có thể cải thiện rất nhiều sau khi phẫu thuật hút mỡ và với quá trình băng ép.
6.6 Xử lí hậu phẫu
Mặc quần áo: vào ngày thứ ba
Cắt chỉ: vào ngày thứ bảy
Sau 1 tuần: dùng siêu âm hội tụ
Sau 2 tuần: điều trị thêm săn chắc da
Sau 3 tuần: có thể dùng thêm tần số vô tuyến (RF) ba cực + và kích hoạt tần số thấp (DMA)Tôi cho bệnh nhân dùng sáu lần điều trị thêm sau phẫu thuật.
Thực hiện dùng RF lưỡng cực để điều trị bằng cách sử dụng nhiệt độ 42->44°C. Nếu da của vùng hút mỡ trở nên cứng sau khi hút mỡ, thì khi điều trị RF bệnh nhân sẽ cảm thấy thoải mái, nhưng độ cứng trở nên tồi tệ hơn. Đây là lý do tại sao tôi không khuyên bạn nên sử dụng RF lưỡng cực.
Siêu âm hội tụ xuống sâu đến 10 cm trong lớp mỡ, giúp phục hồi độ cứng sau khi hút mỡ.
Bí quyết điều trị săn chắc da là cảm giác đau có thể giảm bằng cách giữ da ở một đầu và bắt đầu điều trị ở phía đối diện.
Bác sĩ phẫu thuật có thể cảm thấy sự hữu ích của điều trị thêm sau phẫu thuật nếu anh ta hoặc cô ta thực sự quan tâm điều trị đến bệnh nhân.
6.7 Biến chứng
Không hài lòng vì không hút hết mỡ và nhu mô vú.
Tụ dịch, tụ máu thì rất hiếm gặp. Tôi chưa gặp trường hợp nào trong kinh nghiệm phẫu thuật của tôi
Bầm tím có thể xảy ra
Tổn thương thần kinh hiếm gặp
Không đối xứng
Sợ tại vị trí vết mổ
Da chùng xuống trong hầu hết các trường hợp, nhu mô vú phụ đi kèm với chảy xệ da. Bệnh nhân cần được thông báo trước rằng da có thể bị chảy xệ sau phẫu thuật
Viêm
Da không đều hoặc gấp nếp khi mô vú phụ được cải thiện, có thể có một đường da bị gấp lại
6.8 Những trường hợp khác nhau
Trường hợp 1 Phụ nữ 27 tuổi, hai vú phụ trong một nách (nhiều vú phụ; Hình 8.16, 8.17 và 8.18).
Trường hợp 2 Phụ nữ 23 tuổi, hút 150 mL, trước và 3 tuần sau khi phẫu thuật (Hình 8 .19 và 8. 20).
Trường hợp 3 Phụ nữ 27 tuổi, cắt bỏ ở cả hai vú phụ và có núm vú phụ ở bên phải, trước và 2 tuần sau khi phẫu thuật (Hình. 8.21, 8.22, 8.23 và 8.24).
Trường hợp 4 Phụ nữ /32 tuổi, trước và 2 tuần sau phẫu thuật (Hình 8.25, 8.26 và 8.27).
Trường hợp 5 Phụ nữ 25 tuổi, trước và 2 ngày sau phẫu thuật (Hình 8.28 và 8.29).
7 Hút mỡ giảm kích thước vú
Phẫu thuật thu gọn vú, trong đó có phương pháp hút mỡ, không phải là phương pháp hay dùng. Đây là phương pháp phẫu thuật chỉ được thực hiện bởi rất ít phòng khám phẫu thuật thẩm mỹ và có rất ít nghiên cứu đề cập đến vấn đề này.
Tôi giải thích ngắn gọn về phẫu thuật thu gọn vú bằng cách sử dụng hút mỡ dựa trên nhiều năm phẫu thuật.
Phương pháp phẫu thuật này, so với phương pháp cắt bỏ da và tuyến vú, thì phương pháp này rất an toàn và bệnh nhân hồi phục nhanh chóng. Ngoài ra, nó không để lại sẹo. Trong trường hợp vú lớn kèm theo vú chảy sệ, có thể có tác dụng nâng sau phẫu thuật.Nếu có biến chứng xảy ra, là có một chút bất thường trên da và quần vú-núm vú bị lún xuống trong một số trường hợp. Liên quan đến những nhược điểm của phẫu thuật này, những bệnh nhân có vú lớn không có nhiều mỡ và những người có nhiều nhu mô tuyến vú không thể áp dụng phương pháp phẫu thuật này.
Hình 10.1 cho thấy hiệu quả hút mỡ đã làm giảm kích thước vú hơn ba lần cup size. Kết quả là núm vú bị chảy sệ cũng được nâng lên (Hình 10.2).Một trong những bí mật ở phụ nữ muốn che giấu bộ ngực lớn. Nhiều bác sĩ phẫu thuật vẫn nghĩ rằng phẫu thuật thu gọn vú là khó khăn. Đây là lý do tại sao bệnh nhân cũng nghĩ rằng phẫu thuật để giảm kích thước vú là không dễ dàng thực hiện được.
Tuy nhiên, phẫu thuật thu gọn vú đã trở thành một phẫu thuật đơn giản, và mang lại mức độ hài lòng cao hơn cho bệnh nhân so với trước đây, vì các công nghệ và thiết bị y tế đã phát triển.
Do đó, tác giả muốn giải thích phẫu thuật thu gọn vú bằng phương pháp hút mỡ dựa trên bí quyết và kinh nghiệm trong phẫu thuật vú.
Phẫu thuật hút mỡ có thể có tác động mạnh mẽ đến vú lớn.
Phẫu thuật hút mỡ có thể có tác động lớn đến những bộ vú lớn.
Trước năm 2010, phương pháp phẫu thuật thu gọn vú chính là sử dụng phương pháp phẫu thuật rạch da và tạo hình vú. Do có nhiều biến chứng, cùng với thời gian phẫu thuật kéo dài, như sẹo mổ nghiêm trọng ở vú, nguy cơ nhiễm trùng ở vú và hoại tử da. Vì vậy phương pháp phẫu thuật sẽ hạn chế áp dụng dần.
Phẫu thuật thu gọn vú bằng phương pháp dùng sóng siêu âm để phân giải mỡ (UAL) rồi hút ra đã thực hiện không nhiều từ trước năm 2000. Vì thiết bị siêu âm phân giải mỡ (ULTRA-Z) với giá thấp hơn nhiều so với trước đây và thiết bị hút rung không khí mới được gọi là EVA đã giới thiệu, một phẫu thuật giảm kích thước vú an toàn với hiệu quả rõ rệt đã trở nên khả thi hơn.
7.1 Chỉ định phẫu thuật
Bệnh nhân đã đến tuổi mãn kinh, có kích thước vú lớn, có một lượng mô mỡ lớn ở vú, da có độ đàn hồi tốt và có ít nhu mô tuyến vú, thì có chỉ định tốt cho phẫu thuật.
Phụ nữ trẻ, ở độ tuổi 20 chưa đến tuổi mãn kinh cũng có thể được phẫu thuật. Trong trường hợp này, kiểm tra trước mổ kỹ, bao gồm test kiểm tra và sờ nắn, là rất quan trọng. Khi lượng mỡ bao phủ toàn bộ vú là có thể phẫu thuật. Trong trường hợp những phụ nữ trẻ, thực hiện phẫu thuật nên tránh tổn thương cho nhu mô tuyến vú.
Trong trường hợp bệnh nhân gầy với bộ vú lớn, hầu hết vú dự kiến thu nhỏ lại sẽ chỉ từ nhu mô tuyến vú. Thực hiện các test để quyết định phẫu thuật. Tuy nhiên, ở những loại bệnh nhân này, phẫu thuật là khó khăn.
Ở những bệnh nhân thừa cân nặng và vú lớn thì có xu hướng thừa nhiều mỡ ở nách bên cạnh vú. Trong trường hợp này, cũng nên thực hiện hút mỡ ở nách.
Với điều này, chiều rộng của thành ngực có vẻ mỏng hơn. Nó có thể giảm bớt phẫu thuật bằng cách hút mỡ các vùng dọc theo đường bên cạnh vú khi cánh tay đưa xuống.
Điều này cũng có thể mang lại sự hài lòng hơn bằng cách hút vừa đủ vùng nách trước khi bệnh nhân mặc áo không tay sau khi phẫu thuật.
Tác giả thích thực hiện hút mỡ bụng hoặc hút mỡ cánh tay cùng với phẫu thuật thu gọn vú. Lý do là vì khi thực hiện phẫu thuật hút mỡ bụng hoặc cánh tay bằng phẫu thuật thu gọn vú, thời gian phẫu thuật có thể giảm so với khi phẫu thuật thu gọn vú được thực hiện riêng lẻ. Hơn nữa, nếu cánh tay hoặc bụng trở nên mỏng hơn cùng với vú giảm đi, thì phần trên của cô ấy có thể trông đẹp hơn.
7.2 Sự bất tiện vì vú lớn
Đau vai
Giãn da vú
Nỗi ám ảnh
Khó khăn khi lựa chọn áo ngực
7.3 Thiết bị cần thiết cho phẫu thuật
ULTRA-Z Tần số định mức 50 Hz / 60 Hz. Thiết bị siêu âm phân giải mỡ mạnh (ULTRA-Z) với mức tiêu thụ điện 300 VA.
EVAĐộ rung cực mạnh (EVA) là trên thế giới chỉ có thiết bị hút rung không khí. Nó thực hiện 3000 vòng quay /mỗi phút. Đây là thiết bị rất tốt để hút nhu mô vú trong phẫu thuật thu gọn vú.
Thiết kế
Vẽ đường viền bờ ngoài của vú (Hình 10.3). Đánh dấu vùng nách trước và vùng nách dưới sao cho các vùng này được hút cùng một lúc.
Khi đo khoảng cách từ đường nếp lằn vú đến rốn trước khi phẫu thuật, sẽ rất có ích khi đánh giá kết quả thu gọn vú bằng cách so sánh với khoảng cách lớn hơn sau phẫu thuật.
Hơn nữa, khi đo khoảng cách từ giữa xương đòn đến núm vú, bạn có thể kiểm tra sự bất cân xứng của vú. Nó cũng có lợi để đánh giá kết quả giảm vú bằng cách so sánh nó với khoảng cách ngắn hơn sau khi phẫu thuật.
Chụp ảnh trước phẫu thuật
Hình 10.4 được chụp từ phía trước khi bệnh nhân và chú ý ở góc 45° khi bệnh nhân đứng yên.10.6 Chuẩn bị phòng mổ
Để thu gọn vú, cần có thiết bị siêu âm phân giải mỡ (ULTRA-Z) và thiết bị rung hút mỡ EVA (Hình 10.5).
Kiểm tra thiết bị trước khi phẫu thuật. Hai bộ thiết bị đặt cùng nhau ở phía bên trái của bàn mổ.
Tất cả các dụng cụ y tế cần thiết cho phẫu thuật nên sắp xếp trên xe đẩy dụng cụ (Hình 10.6).
Bệnh nhân sẵn sàng cho phẫu thuật. Hình 10.7 cho thấy một bệnh nhân đã sẵn sàng cho phẫu thuật.
7.4 Quy trình và thời gian phẫu thuật
Thiết kế trước phẫu thuật: 1 phút
Vô trùng và chuẩn bị cho phẫu thuật: 15 phút
Tiêm dung dịch tumescent: 10 phút
Phân giải mỡ bằng thiết bị siêu âm (ULTRA-Z): 10->15 phút
Hút mỡ và nhu mô vú bằng cách sử dụng EVA: 20 ~ 30 phút
Di chuyển bệnh nhân đến phòng hồi sức: 15 phút
Thời gian phẫu thuật thực tế trung bình: ít hơn 60 phút
7.5 Dung dịch Tumescent
Thành phần dung dịch Tu-mescent Nước muối sinh lí 1L + epi-nephrine 1,5 A + 30 mL lidocaine 2% + bicarbonate 10 mL.
Chuẩn bị 2000->3000 mL dung dịch tumescent. Có thể có sự khác biệt về lượng dung dịch tu-mescent tiêm vào theo vùng phẫu thuật, độ dày mỡ và kích thước vú. Thông thường, sử dụng 2500 mL dung dịch tumescent.
Sử dụng Epinephrine tối đa 2 ống trong trường hợp bệnh nhân có nhu mô tuyến vú vú dày đặc. Thông thường là sử dụng 1,5 ống.
Sử dụng đủ dung dịch tumescent có thể làm giảm chảy máu và giảm đau.
Tiêm dung dịch tumescent từ bên phải nằm ngoài cơ ngực lớn, đây là phần thấp nhất của vú. Dung dịch tumescent lan dần từ lớp giữa đến lớp mỡ bề mặt vú.
Có thể chấp nhận rằng không có khả năng tràn khí màng phổi khi tiêm dung dịch tumescent vào vú.Sử dụng đủ dung dịch tu-mescent có thể làm giảm chảy máu và giảm đau có thể xảy ra ngay sau khi phẫu thuật. Giữ dung dịch tu-mescent đã pha trong điều kiện ấm (Hình 10.8).
Gây tê
Khi bắt đầu gây mê cho bệnh nhân ngủ, nên tiêm ketamine trước sau đó là propofol. Sau đó, tiêm propofol xen kẽ. Sau lần tiêm đầu tiên, có thể tiêm thêm ket-amine khoảng bốn lần.
Nếu có thể thực hiện gây mê bằng cách chỉ sử dụng propofol, thì nên tránh dùng ketamine nếu có thể.
Trong trường hợp của tôi, tôi bắt đầu gây mê khi cho bệnh nhân ngủ bằng ketamine 0,4 mL + propofol 6->7 mL.
Trước khi bệnh nhân tỉnh dậy, tôi tiêm 4 ml propofol vào tĩnh mạch, thời gian tiêm khoảng là 4 phút. Tôi điều chỉnh khoảng thời gian tiêm bằng cách kiểm tra mức độ ngủ của bệnh nhân.
Tôi không khuyến cáo tiêm propofol liên tục bằng cách sử dụng bơm propofol tự động.
Điều này là do thời gian phẫu thuật thực tế ngắn (30 ->40 phút) và tình trạng ngủ có thể được duy trì tốt bằng cách sử dụng thuốc gây mê propofol không liên tục, vì đã tiêm dung dịch tumescent trước đó.
Vùng vết mổ
Một vết rạch được thực hiện tại đường nếp lằn vú (IMF) và một vết rạch da thêm tại vùng nếp gấp da ở nách.
Vết rạch da ở nếp lằn vú thì nằm trong khu vực có thể bị che giấu bởi bộ vú.
Một vết sẹo sau khi phẫu thuật trong trường hợp này là không quan trọng lắm.
Kích thước vết rạch phải vào khoảng 3->4 mm. Khâu vết thương sau khi phẫu thuật bằng sử dụng chỉ Nylon 5-0. Sau khi khâu vết thương, khu vực vết mổ phải được che phủ bằng băng thấm nước vô trùng và băng dán cố định (Hình 10.9).
Sử dụng thiết bị siêu âm phân giải mỡ
Đưa đầu dò của thiết bị siêu âm phân giải mỡ (ULTRA-Z) vào dưới da và phẫu thuật bắt đầu sau khi cài đặt chế độ năng lượng thành 100 (tối đa).
Thông thường, sử dụng UL-TRA-Z trong 1 mỗi phút/100 mL-dung dịch tumescent. Tuy nhiên, có thể sử dụng trong một thời gian ngắn hơn.
Trong trường hợp vú lớn, sử dụng ULTRA-Z trong 5 ->10 phút cho mỗi vú.
Khi sử dụng ULTRA-Z, các phần mô cứng sẽ bị mềm dần khi đưa đầu dò vào. Điều này cho thấy một điểm kết thúc của việc sử dụng thiết bị.
Sử dụng hút mỡ EVA
Đầu tiên, để hút mỡ vú và nhu mô tuyến vú cùng một lúc, sử dụng EVA có công suất rung là 4.0 bar, lực hút −0.8 bar, và một ống cannula rộng 4 mm. Khi nhu mô tuyến vú vú dày đặc và rất cứng, độ rung được chuyển thành 0 và việc hút chỉ xảy ra bằng cách sử dụng lực hút. Đây được gọi là kỹ thuật thủ công.
Mục tiêu của phẫu thuật này là giảm kích thước của vú để bệnh nhân không cảm thấy khó chịu do vú quá lớn. Bệnh nhân có thể có được sự hài lòng khi hút đủ hết mỡ ở vú và hút đủ nhu mô tuyến vú.
Hút nên bắt đầu ở phần trên của cơ, đó là phần thấp nhất của nhu mô tuyến vú vú. Hút hết lớp mỡ bên dưới nhu mô tuyến vú, và sau đó lớp mỡ ngay dưới da nên hút vào cuối cùng.
Nếu hút quá nhiều ở lớp mỡ dưới da, da sẽ trở nên không đều sau khi phẫu thuật. Do đó, nên tránh hút quá nhiều ở khu vực này.
Lượng hút trung bình
Khi 1 bệnh nhân có cup size 75 và trọng lượng cơ thể 65 kg được coi là chuẩn, lượng mỡ hút trung bình là hơn 1500 mL. Lượng hút này có thể làm giảm kích thước vú hơn hai cup size.
7.6 Kết quả chảy sệ vú sau phẫu thuật
Bệnh nhân có độ đàn hồi da tốt có thể chảy sệ vú do vú quá lớn. Điều này chủ yếu là do trọng lượng của bộ vú. Do đó, khi trọng lượng của toàn bộ vú giảm đi nhờ hút mỡ, điều này có thể có tác dụng nâng vú bị chảy xệ. Điều này dựa trên cùng một nguyên tắc rằng khi mỡ hút từ cánh tay chảy xệ, có thể có tác dụng nâng lên cánh tay sau khi phẫu thuật.
Ngay sau khi phẫu thuật hoàn thành, vú có thể được nâng lên. Tuy nhiên, khoảng 10 ngày sau khi hút, toàn bộ vú có thể trở nên săn chắc. Khi cải thiện độ cứng này, hiệu ứng nâng có thể tăng dần lên với tác dụng ép vú bằng cách mặc quần áo bó.Tuy nhiên, những bệnh nhân không áp dụng các chỉ định của phẫu thuật này không thể mong đợi tác dụng nâng lên ở vú sa trễ. Đây là những người gầy, ít mỡ và nhiều nhu mô tuyến vú, hoặc có vú nhỏ và bị viêm vú nặng.
7.7 Xử lí sau mổ
Sau khi hoàn thành phẫu thuật, khâu vết mổ bằng chỉ nylon 5/0, băng gạt vô trùng thấm nước và cố định nó bằng băng thun (Hình 10.10). Vào ngày phẫu thuật, bệnh nhân nên băng ép. Những ngày sau, bệnh nhân nên mặc quần áo bó trong 4 ->8. Trong hầu hết các trường hợp, bệnh nhân không phải mặc quần áo bó liên tục trong 24 giờ. Mặc nó trong 12->16h là đủ. Có thể cắt chỉ vào ngày thứ bảy sau khi phẫu thuật.
7.8 Điều trị sau phẫu thuật
Vào ngày thứ bảy sau khi phẫu thuật: cắt chỉ.
Vào ngày thứ mười sau khi phẫu thuật: dùng siêu âm hội tụ USG trong 30 phút.
Mười lăm ngày sau khi phẫu thuật: kết hợp siêu âm hội tụ USG và săn chắc da.
Hai mươi ngày sau khi phẫu thuật, sử dụng RF 3 cực + kích hoạt cơ ở tần số thấp để tăng độ đàn hồi cho da.
Hai tháng sau khi phẫu thuật, bệnh nhân có thể dùng laser nâng vú bổ sung, đó là tùy thích.
7.9 Bình hút có chứa mỡ và nhu mô vú
Hình 10.11 cho thấy mỡ ở vú và nhu mô tuyến vú đã loại bỏ bằng cách hút ra.
Ngay sau khi phẫu thuật
Trường hợp 1 (Hình 10.12, 10.13, 10.14 và 10.15).
Tổng lượng mỡ được hút là 2000 mL. Hình 10.14 cho thấy bệnh nhân ngay sau khi phẫu thuật. Không có chảy máu hoặc bầm tím. Cũng không có đau nhiều ngay sau khi hoàn thành phẫu thuật. Có thể thấy rằng vú đã trở nên nhỏ hơn. Bệnh nhân đã hài lòng rất cao với hiệu quả giảm kích thước vú ngay sau khi phẫu thuật.
Trường hợp 2 (Hình. 10.16 and 10.17). Tổng lượng mỡ được hút là 1200 mL. Bệnh nhân nằm ngửa với bộ vú rất nhỏ.
Trường hợp 3 (Hình. 10.18).Có thể thấy kích thước của vú phải giảm nhiều so với bên trái.
Tôi hút 750 ml từ vú phải của bệnh nhân.
Hút cả hai bên vú đã hoàn thành.
Các trường hợp khác nhau liên quan đến phẫu thuật thu gọn vú
Trường hợp 1 Điều trị vú không đối xứng bằng cách hút mỡ (Hình. 10.19 và 10.20).Bệnh nhân này rất hài lòng với việc hút ít hơn 1000 mL. Sự bất cân xứng của 2 vú đã được cải thiện nhiều.
Tuổi: 40, chiều cao: 150 cm, cân nặng: 50 kg, lượng hút: 600 mL
Khoảng cách từ đường nếp lằn vú đến rốn: trước khi phẫu thuật: 11 cm, sau phẫu thuật: 15,5 cm.
Trường hợp 2 Điều trị vú không đối xứng, sau phẫu thuật ung thư vú (Hình 10.21 và 10.22).