1. Trang chủ
  2. Tạo Hình Thẩm Mỹ
  3. Phẫu thuật chỉnh sửa biến dạng núm vú thường gặp ở người châu Á

Phẫu thuật chỉnh sửa biến dạng núm vú thường gặp ở người châu Á

Phẫu thuật chỉnh sửa biến dạng núm vú thường gặp ở người châu Á

Nguồn : Breast Augmentation Video Atlas- Chương 5

Bản dịch tiếng Việt: Video Atlas phẫu thuật nâng vú

Chủ biên: Wil-liam P. Adams, Jr

Dịch bởi: Ths.Bs Đinh Công Phúc cùng sự hỗ trợ nhóm E-bacsy.

1 Giới thiệu

Sự bất thường của núm vú bao gồm nhiều loại dị tật khác nhau. Phì đại núm vú và tụt núm vú, hai trong số các dị dạng thường thấy, hay gặp ở phụ nữ hơn nam giới. Cả hai đều có thể gây ra tâm lý đau khổ và khó chịu về thể chất, chẳng hạn như kích thích núm vú, nứt nẻ và loét. Trong chương này, chúng tôi sẽ mô tả núm vú lý tưởng ở phụ nữ châu Á, hai biến dạng núm vú phổ biến nhất và kỹ thuật phẫu thuật để chỉnh sửa.

2 Núm vú lý tưởng

Kích thước núm vú lý tưởng ở phụ nữ châu Á là chiều cao khoảng 10 mm và đường kính từ 8 đến 10 mm. Núm vú có chiều cao và đường kính vượt quá kích thước bình thường hơn 50% được coi là phì đại, đủ điều kiện để chỉnh sửa phẫu thuật. Tuy nhiên, khi xác định xem bệnh nhân có núm vú phì đại hay không, bác sĩ phẫu thuật nên xem xét tỷ lệ của núm vú với kích thước của toàn bộ vú và quầng vú. Một núm vú có thể được chia thành 3 phần: đỉnh hình vòm (khoảng 3 mm), giữa hình trụ (khoảng 5 mm) và nền núm dốc cong (khoảng 2 mm) (Hình 15.1). Hầu như tất cả phụ nữ coi núm vú của họ là một yếu tố quan trọng của toàn bộ ngực. Không còn nghi ngờ gì nữa, biến dạng núm vú có thể làm hỏng hình ảnh của bộ ngực đẹp về mặt thẩm mỹ.

Hình 15.1Các số đo lý tưởng của núm vú nên có chiều rộng từ 8 đến 10 mm, với đỉnh hình vòm 3 mm, giữa hình trụ 5 mm và nền núm dốc 2 mm

3 Phì đại núm vú

Phì đại núm vú (đầu vú quá dài), còn được gọi là núm vú lớn, là một tình trạng thường xuyên xảy ra ở phụ nữ châu Á hơn phụ nữ phương Tây. Bệnh nhân thường cố gắng che giấu khuyết điểm này bằng cách tránh mặc quần áo chật hoặc mỏng. Do không có định nghĩa chính xác về tình trạng này, dịch tễ học vẫn còn chưa rõ. Tuy nhiên, trong số tất cả phụ nữ, cho con bú và các yếu tố di truyền được coi là nguyên nhân có thể gây ra. Mặc dù thường xuyên xảy ra, phì đại núm vú đã nhận được sự chú ý ít hơn nhiều so với chứng vú to bất thường. Trong những năm qua, các bác sĩ phẫu thuật trên toàn thế giới đã đề xuất nhiều kỹ thuật để điều chỉnh phì đại núm vú, và mỗi kỹ thuật đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Một phẫu thuật chỉnh sửa thành công nên tránh mất khả năng tiết sữa và đạt được kết quả thẩm mỹ thuận lợi.

3.1 Phân loại

Phì đại núm vú thường có thể được phân thành ba loại sau:

  • Loại I: Đường kính núm vú vượt quá 10 mm
  • Loại II: Chiều cao núm vú vượt quá 10 mm
  • Loại III: Cả đường kính núm vú và chiều cao vượt quá 10 mm

3.2 Kỹ thuật phẫu thuật: Phì đại núm vú

Trong những năm qua, các bác sĩ phẫu thuật trên thế giới đã giới thiệu nhiều phương pháp phẫu thuật khác nhau để chỉnh sửa phì đại núm vú. Các kỹ thuật có thể được phân thành hai loại: bảo tồn vòm núm vú và loại bỏ vòm núm vú.

3.3 Bảo tồn vòm núm vú

Vòm của núm vú rất quan trọng cho cả chức năng và bề ngoài thẩm mỹ. Bảo tồn vòm núm vú có ưu điểm là duy trì hình dạng tự nhiên, cảm giác của núm vú và ống dẫn sữa ở giữa. Tuy nhiên, việc duy trì vòm núm vú là một khó khăn về mặt kỹ thuật, bởi vì rất khó để bảo tồn lưu thông tuyến sữa và chức năng cương dương của núm vú thường bị tổn thương. Phương pháp này thường được sử dụng cho phì đại núm vú loại I và II. Một số phương pháp phổ biến được thảo luận trong phần sau.

3.4 Phương pháp cắt vòng tròn

Phương pháp cắt vòng tròn được Jin và Lee giới thiệu lần đầu tiên và phù hợp với bệnh phì đại núm vú loại II. Mục tiêu của kỹ thuật này là điều chỉnh núm vú nhô ra quá nhiều. Kích thước sau phẫu thuật của núm vú cũng có thể quyết định theo nhu cầu của bệnh nhân. Thực hiện đường mổ Zigzag ở phía dưới và trên quanh núm vú. Bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ phần da thừa một cách tỉ mỉ bằng vạt da rất mỏng. Cố định núm vú mới được vào nền của nó bằng cách khâu chỉ 4-0 hoặc 5-0 trên bốn góc (trên, dưới, trong, ngoài), phần lột ra được khâu lại. Phần còn lại của vết mổ được khâu bằng chỉ PDS 6-0 hoặc 5-0 (Hình 15.2).

3.5 Phương pháp vòng tròn mở rộng 

Phương pháp cắt cắt vòng tròn mở rộng cũng được Jin và Lee giới thiệu và chủ yếu được sử dụng cho bệnh phì đại núm vú loại III (Hình 15.3). Bác sĩ phẫu thuật xác định đường kính mong muốn của núm vú mới và sau đó chia chiều rộng dư thừa làm hai phần. Đánh dấu hai phần nhỏ (từ 2 -> 5 mm) ở trên các bề mặt dưới và trên đối diện nhau. Tiếp theo, hai đường rạch ngang (từ 2 ->3 mm) được đánh dấu ở cả hai bên trên đỉnh của mỗi bờ ngay dưới vòm núm vú. Hai vết mổ này chỉ lấy bỏ phần da rất mỏng bên ngoài cho phép 2 bờ của vết rạch sẽ đóng từng khuyết da lại với nhau và thu hẹp núm vú mới. Hai bờ được cắt ra như những mảnh da rất mỏng ở bên ngoài. Hai vết rạch được thực hiện ở cả hai phía của phần trên và phần dưới. Bác sĩ phẫu thuật nên thực hiện bóc tách dưới da tối thiểu khoảng 2 ->3 mm hai bên để nâng hai vạt tiến đến gần nhau bằng khâu chữ U. Hai hình tam giác nhỏ, có chiều rộng từ 2 -> 5 mm, được đánh dấu và cắt bỏ ở bờ dưới và bờ trên của nền vết mổ để thu hẹp các khuyết da hình tròn ở quầng vú.

Cuối cùng, khâu vết mổ ở các khu vực tiếp xúc. Một ví dụ trường hợp điển hình được trình bày trong hình 15.4. Bệnh nhân được biểu thị 2 tuần sau khi chỉnh sửa núm vú và nâng ngực. Không cần chăm sóc thêm sau khi cắt chỉ.

Hình 15.2 Phương pháp cắt vòng tròn. A, thực hiện vết mổ Zigzag ở dưới và trên xung quanh núm vú.
B, cắt bỏ các mô da dư thừa.
C, khâu vết mổ lại.
Hình 15.3 Phương pháp cắt vòng tròn mở rộng.
A, xác định đường kính mong muốn của núm vú và chiều rộng dư thừa được chia làm 2 phần.
B, đánh dấu trên hai phần nhỏ (từ 2 ->5 mm) phần thấp và phần cao đối diện nhau.
C, cắt bỏ da quá dư thừa.
D, khâu vết mổ.
Hình 15.4 A, Núm vú có hình dạng xấu, nhô cao quá mức trước khi phẫu thuật.
B, Sau khi giảm núm vú và nâng vú.
Hình 15.5 Phương pháp 2 vạt tam giác.
A, thực hiện mổ hai vết rạch hình chữ V đối diện nhau ở hai bên núm vú.
B, loại bỏ vùng hình nêm.
C, khâu vết mổ
Hình 15.6 A, nhìn thấy núm vú phì đại của bệnh nhân trước phẫu thuật.
B, khâu núm vú và cắt bỏ mô.
C, Kết quả 6 tháng sau thủ thuật.
Hình 15.7 Kỹ thuật 3 vạt. A, thiết kế 3 vạt chữ Y hình tam giác đối xứng nhau cách đều nhau. Sau đó cắt bỏ lõi của núm vú.
B, Tiếp theo, cắt bỏ núm vú được.
C, Vùng hình dạng chữ Y.

3.6 Loại bỏ vòm của núm vú

Các phương pháp loại bỏ vòm của núm vú được thiết kế chủ yếu để điều chỉnh phì đại núm vú loại I. Mặc dù vòm núm vú rất cần thiết cho cả chức năng và bề ngoài thẩm mỹ, các kỹ thuật loại bỏ vòm này ít khó khăn hơn và có thể bảo tồn tốt hơn chức năng cương dương của núm vú. Tuy nhiên, cảm giác núm vú và ống dẫn sữa ở giữa thường bị tổn thương, điều này có thể dẫn đến mất hoàn toàn khả năng tiết sữa. Một số kỹ thuật loại bỏ vòm núm vú được giới thiệu trong phần sau.

3.7 Phương pháp 2 vạt tam giác

Phương pháp 2 vạt tam giác (Hình 15.5), được giới thiệu bởi Wang, 3, 4, chủ yếu phù hợp cho bệnh phì đại núm vú loại II. Thực hiện 2 vết mổ hình chữ V đối diện nhau ở hai bên núm vú. Loại bỏ khu vực hình nêm. Cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ phần ở giữa của núm vú, tùy theo nhu cầu. Khâu 2 vạt tam giác bằng chỉ khâu PDS 5-0 hoặc 6-0. Một ví dụ trường hợp đại diện được trình bày trong hình 58-6. Bệnh nhân hiển thị 6 tháng sau khi phẫu thuật. Không cần chăm sóc đặc biệt thêm sau khi cắt chỉ.

Hình 15.8 Loại bỏ vòm núm vú. A, Vẽ trước phẫu thuật trên núm vú có độ nhô ra quá nhiều.
B, Sau khi thực hiện kỹ thuật 3 vạt cùng với nâng vú

3.8 Phương pháp 3 vạt

Phương pháp 3 vạt (Hình 15.7), được giới thiệu bởi Basile và Chang, chủ yếu được sử dụng để điều chỉnh phì đại núm vú loại III. Ba vạt tam giác đối xứng và cách đều nhau được thiết kế theo kiểu chữ Y. Lõi của núm vú được cắt bỏ khi thực hiện giảm đường kính núm vú. Cắt bỏ đầu núm vú trong các vạt tam giác xiên để giảm chiều cao dư thừa. Bác sĩ phẫu thuật nên khâu vết mổ vạt hướng về phía trung tâm với chỉ khâu tiêu 5-0 để làm giảm đường kính của núm vú.Nếu núm vú chỉ cần giảm chiều cao, không cần phải cắt bỏ lõi núm vú khi tạo ra vạt tam giác đối xứng.

Hình 15.8 cho thấy vẽ trước phẫu thuật và kết quả sau phẫu thuật của cùng một vú 2 tuần sau khi giảm núm vú và nâng ngực. Không cần chăm sóc hậu phẫu đặc biệt. Các núm vú giữ lại hình dạng và khối lượng thiết kế, và bệnh nhân hài lòng với kết quả. Một số bệnh nhân lưu ý mất một phần cảm giác trên đầu núm vú; khả năng này đã được thảo luận với bệnh nhân trong quá trình tư vấn trước phẫu thuật.

4 Núm vú tụt

Một núm vú tụt, núm vú được rút vào trong vú trên mặt phẳng thấp hơn mặt phẳng quầng vú thay vì nhô ra phía trước, điều này gây ra giống như biến dạng miệng núi lửa (Hình 15.9).Trong trường hợp nhẹ, núm vú có thể nhô ra tạm thời khi kéo ra hoặc kích thích, nhưng trong trường hợp nặng, nó chỉ có thể chỉnh sửa bằng phẫu thuật.

4.1 Nguyên nhân

Một núm vú tụt thường là bẩm sinh; tuy nhiên, nó cũng có thể bị mắc phải do ung thư da, viêm hoặc chấn thương. Khoảng 10% tất cả phụ nữ có tình trạng này. Khoảng 87% các trường hợp là bị 2 bên, và 13% là 1 bên. Nó có thể ảnh hưởng đến phụ nữ trong độ tuổi từ 18 đến 50 tuổi. Khoảng 10% đến 20% tất cả phụ nữ được sinh ra với dị tật này. Các nguyên nhân phổ biến nhất của núm vú tụt vào bẩm sinh là dây chằng ống sữa ngắn và cơ thắt quần vú rộng. Các nguyên nhân phổ biến khác của tụt núm vú được tóm tắt trong Bảng 15.1

Hình 15.9 So sánh núm vú bình thường với núm vú tụt. A, Bình thường núm vú nhô ra với một dây chằng ống dẫn sữa bình thường.
B, Núm vú co rút lại với một dây chằng ống dẫn sữa ngắn.

Một số yêu tố nguyên nhân phổ biến của tụt núm vú

  • Cho con bú
  • Mang thai
  • Chấn thương do hoại tử mỡ, sẹo, biến chứng phẫu thuật, v.v.
  • Vú sa trễ.
  • Ung thư và ung thư vú, ung thư gây viêm tuyến vú.
  • Bệnh Paget .
  • Kích thích lặp đi lặp lại hoặc viêm, chẳng hạn như ống dẫn sữa tuyến vú, áp xe vú hoặc viêm vú.
  • Các dạng di truyền của hình dạng núm vú, như hội chứng Weaver, hội chứng Fryns-Aftimos, hội chứng xóa nhiễm sắc thể 2q, một rối loạn bẩm sinh của gly-cosylation loại 1A và 1L, hoặc hội chứng Kenner-knecht-Sorgo-Oberhoffer.
  • Vú to ở đàn ông.
  • Holoprosencephaly, nhiễm trùng tái phát hoặc tăng bạch cầu quá mức.
  • Bệnh lao.

4.2 Xếp loại

Năm 1999, Han và Hong đã giới thiệu một hệ thống phân loại để phân loại mức độ tụt núm vú. Trong hệ thống của họ, núm vú được phân thành ba cấp theo mức độ dễ bị kéo dài, mức độ xơ hóa tồn tại trong vú và nguy hại cho các ống dẫn sữa.

4.2.1 Độ I

Độ I được nhiều chuyên gia gọi là “núm vú e thẹn”, vì nó có thể dễ dàng kéo ra bằng tay hoặc bất kỳ phương tiện nào khác (Hình 15.10). Núm vú tụt độ I vẫn duy trì độ nhô của nó và hiếm khi co lại. Thường thì núm vú nhô ra mà không cần bất kỳ thao tác hay kích thích nào. Các ống dẫn sữa thường không bị tổn thương do bất kỳ sự co rút lại nào, và có thể cho con bú. Xơ hóa thường không có hoặc rất ít. Không có sự thiếu hụt mô mềm của núm vú.

4.2.2 Độ II

Ở độ II, núm vú có thể được kéo ra nhưng bị vùi sâu hơn núm vú tụt độ I (Hình 15.11). Núm vú thường rút vào khi không kéo ra hay kích thích. Cho con bú thường rất khó khăn, mặc dù vẫn có thể. Mức độ xơ hóa là vừa phải. Các ống dẫn sữa được co rút lại nhẹ nhưng không cần phải cắt để giải phóng xơ hóa. Kiểm tra mô học thường cho thấy núm vú có cấu trúc Collagen dày đặc với nhiều bó cơ trơn.

Hình 15.10 Một núm vú tụt độ I có thể được kéo ra bằng tay.
Hình 15.11 Núm vú tụt độ II được vùi sâu hơn núm vú độ I nhưng vẫn có thể nhô ra và kéo ra

4.2.3 Độ III

Núm vú tụt độ III là núm vú bị co rút nặng và hiếm khi có thể kéo ra (Hình 15.12). Cần phẫu thuật chỉnh sửa. Các ống dẫn sữa thường bị tắc nghẽn và không thể cho con bú. Bởi vì núm vú bị co rút nghiêm trọng, rất khó để duy trì vệ sinh núm vú, và nhiễm trùng hoặc viêm nhiễm xảy ra. Sự xơ hóa là nghiêm trọng, và các ống dẫn sữa bị rút ngắn và co rút lại. Mô mềm thường không đủ. Kiểm tra mô bệnh học có thể cho thấy các đơn vị thùy cuối ống dẫn sữa teo và xơ hóa nghiêm trọng.

4.3 Kỹ thuật không phẫu thuật

Có nhiều cách lựa chọn để điều trị chỉnh sửa núm vú tụt, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng núm vú. Phương pháp không phẫu thuật như dùng máy hút sữa hoặc các loại dụng cụ hút chân không khác có thể sử dụng trong trường hợp nhẹ. Trong trường hợp nặng, phẫu thuật thẩm mỹ có thể là lựa chọn duy nhất. Dụng cụ hút chân không là phương pháp điều trị không phẫu thuật dễ dàng nhất và thường được sử dụng nhất cho tụt núm vú. Trong một số trường hợp, chẳng hạn như độ I hoặc tụt núm vú độ II nhẹ, núm vú có thể được rút ra bằng dụng cụ hút hoặc hút áp lực (Hình 15.13). Mặc dù phương pháp này đã có hiệu quả trong một số trường hợp, nhưng tái phát có thể xảy ra khi bệnh nhân ngừng sử dụng dụng cụ hỗ trợ hoặc tình trạng thay đổi.

Hình 15.12 Núm vú tụt độ III bị co rút nặng và hiếm khi có thể chạm được hoặc kéo ra

4.4 Kỹ thuật phẫu thuật

Trong trường hợp tụt núm vú nặng độ III, trong đó núm vú không thể kéo ra được về mặt hình thể, điều trị phẫu thuật là biện pháp cuối cùng. Trong những năm qua, các phương pháp điều trị phẫu thuật đã phát triển thành các loại chính sau: giải phóng vết mổ, khâu, vạt da và ghép.

4.5 Giải phóng và khâu

Phương pháp giải phóng vết mổ liên quan đến việc bóc tách các dải xơ ngắn và ống dẫn sữa kéo núm vú vào bên trong thông đường mổ quanh quần vú. 

Phương pháp này có hiệu quả nhưng không nên sử dụng cho phụ nữ còn muốn cho con bú, vì nó làm hỏng số lượng các ống dẫn sữa. Để giải quyết vấn đề này. Chen và cộng sự giới thiệu một kỹ thuật nội soi. Thay vì mổ bóc tách mò để cắt các dây chằng co rút ngắn dải sợi và ống dẫn sữa và do đó có nguy cơ gây tổn thương cho các ống dẫn sữa, dây thần kinh và mạch máu bình thường, kỹ thuật này cho phép các bác sĩ phẫu thuật xác định vị trí và phân tích chính xác các mô bất thường, tăng khả năng bảo tồn các ống dẫn sữa bình thường. Các tác giả đã báo cáo rằng 82% số núm vú đã chỉnh sữa thì duy trì được sự lộn ra và 27% bệnh nhân có thể tiết sữa thành công.

4.6 Kỹ thuật khâu đôi hình chữ U

Chỉ khâu đôi hình chữ U được phát triển bởi Quan et a (Hình 15.14). Luồn chỉ khâu để kéo núm vú lên trên mức quầng vú. Tám lỗ có đường kính 1 mm cách đều nhau được chọc qua trên nền núm vú. Thực hiện khâu chỉ silk 7-0. Mỗi mũi khâu xuyên qua một lỗ được tạo ra ở nền núm vú, tiến xuống dưới, khâu một miếng nhỏ của tuyến vú và sau đó thoát ra qua lỗ đối diện. Đầu kim lại chọc vào lỗ thoát ra, tiến vào dưới da trong khoảng 5 mm, và sau đó thoát ra cùng một lỗ. Một lần nữa, kim lại khoét lỗ đã thoát ra, tiến xuống phía dưới và khâu một vết nhỏ của tuyến vú, thoát ra qua lỗ đối diện, nối lại lỗ thoát lỗ, di chuyển dưới da trong 5 mm, và sau đó thoát ra lỗ đầu tiên, do đó hoàn thành chu kỳ. Quá trình được lặp lại để tạo thành hai mũi khâu hình chữ U vuông góc với nhau. Các lực dọc đẩy núm vú lên trên, do đó cải thiện được độ nhô của nú vú.

Hình 15.14 Hai mũi khâu đôi hình chữ U được chôn dưới da chồng lên nhau ở nền của núm vú.
Hình 15.15 Phương pháp Broadbent và Woolf. A, Rạch một vết mổ dọc từ trên xuống dưới đến nền núm vú. B, Bác sĩ phẫu thuật bóc tách bằng kéo đầu tù và giải phóng các dải sợi co rút lại hoặc ống dẫn sữa. Cắt các mô tuyến vú bên dưới núm vú, và tạo ra hai vạt mô tuyến vú. C và D, sau đó kéo hai vạt mô tuyến về phía ở giữa và cố định bằng chỉ khâu để lấp đầy khoảng trống bên dưới núm vú.
Hình 15.16 A, A núm vú tụt độ III. B, Kết quả 10 ngày sau khi thực hiện kỹ thuật khâu của Broadbent và Woolf. 

4.7 Đường mổ Broadbent – Woolf và phương pháp khâu

Phương pháp rạch và khâu vết mổ được phát triển bởi Broadbent và Woolf (Hình 15.15). Thực hiện một vết rạch dọc được từ trên xuống đến nền núm vú. , Bác sĩ phẫu thuật bóc tách bằng kéo đầu tù và giải phóng các dải sợi co rút lại hoặc ống dẫn sữa. Cắt các mô tuyến vú bên dưới núm vú, và tạo ra hai vạt mô tuyến. C và D, sau đó kéo hai vạt mô tuyến về phía ở giữa và cố định bằng chỉ khâu để lấp đầy khoảng trống bên dưới núm vú, ngăn ngừa co rút tái phát. Khâu vết thương bằng chỉ khâu 5-0 hoặc 6-0. Một ví dụ trường hợp đại diện được trình bày trong hình 58-16. Hình ảnh sau mổ 10 ngày.

4.8 Vạt da hình bán nguyệt 

Phương pháp vạt da hình bán nguyệt được phát triển bởi Wang (Hình 15.17). Núm vú được kéo ra bằng chỉ khâu. Thiết kế 1 hay 2 vạt da hình bán nguyệt từ 0,6 đến 1 cm ở góc ¼ phía dưới bên trong, tùy thuộc vào kích thước của núm vú. Thực hiện rạch da ở rìa dưới của núm vú, và cắt bỏ sợi xơ bị co rút lại kéo núm vú xuống. Nếu núm vú vẫn bị tụt vào, bác sĩ phẫu thuật nên bóc tách hay cắt một ít hoặc hầu hết các ống dẫn sữa để giúp giải phóng sự rút trở lại. Thiết kế một vạt mô tuyến vú từ 0,6 đến 1 cm và đặt dưới núm vú để lấp đầy dưới nền núm vú. Khâu vào nền vú để giúp cố vạt mô và ngăn ngừa tổ chức phòi ra. Vạt da hình bán nguyệt được chuyển vào sát nền núm vú, và khâu vết mổ.

Hình 15.17 Vạt da hình bán nguyệt.
A, khâu một sợi chỉ kéo trên đầu núm vú.
B, thiết kế một vạt da hình bán nguyệt trên phía góc ¼ dưới của quầng vú.
C, Đường rạch được tạo ra và vạt da được nâng lên.
D, Cắt các tổ chức xơ hóa ở bên dưới nền vú.
E, khâu vết mổ.
Hình 15.18 Vạt da có cuống dưới da đã bỏ lớp thượng bì có hình thoi hai bên.
A, thiết kế hai đường mổ hình thoi ở hai bên núm vú đối diện nhau và cắt bỏ mô da.
B, Hai vạt hình thoi được đặt dưới núm vú và chồng lên nhau.
C, khâu vết mổ.
D, Kết quả cuối cùng.

4.9 Vạt da có cuống dưới da đã bỏ lớp thượng bì có hình thoi hai bên

Quy trình chỉnh sửa vạt da có cuống dưới da đã bỏ lớp thượng bì có hình thoi hai bên được phát triển bởi Zhang và Yang (Hình 15.18). Thiết kế 2 vết mổ hình thoi trên hai bên núm vú đối diện nhau. Chiều dài của cạnh AB và AD, bằng nhau (10 ->15 mm), bằng với chiều cao của núm vú sau phẫu thuật. Chiều rộng của các vết mổ hình thoi được thiết kế theo mức độ tụt của tình trạng núm vú. Chiều rộng không được quá rộng để ảnh hưởng đến khâu và cung cấp máu (khoảng 8 mm). Bên BC và DC phải bằng nhau. Núm vú được kéo dài ra bằng chỉ khâu. Bác sĩ phẫu thuật thực hiện các vết mổ dựa trên thiết kế trước phẫu thuật và tạo khối sâu cả hai vết mổ hình thoi. Bác sĩ phẫu thuật phải bóc tách mặt trên và dưới của vết mổ ở dưới da để tạo ra hai vạt da có tổ chức dưới da ở 2 bên quần vú. Mổ bóc tách để giải phóng bất kỳ sự co rút lại của các dải sợi và các mô sao cho núm vú được hoàn toàn. Bác sĩ phẫu thuật nên tránh mổ cắt ngang và làm hỏng ống dẫn sữa. Sau đó, bác sĩ phẫu thuật sẽ bóc tách bên dưới núm vú để tạo đường hầm. Hai vạt đã loại bỏ da thì tiến qua đường hầm, và chúng được khâu vào các vết mổ đối diện để tăng lực kéo dài núm vú, cho phép núm vú kéo dài liên tục. Khâu vết thương thành hai lớp. Một ví dụ trường hợp đại diện được trình bày trong hình 15-19.Bức ảnh hậu phẫu được chụp 2 tuần sau khi phẫu thuật

Hình 15-19 A, núm vú tụt độ III. B, Kết quả 2 tuần sau khi phẫu thuật bằng kỹ thuật vạt da 2 bên.

4.10 Vạt da quần vú có 2 tam giác cải tiến

Phương pháp vạt da quần vú cải tiến có 2 tam giác được phát triển bởi Kim và cộng sự. Đo đường kính của núm vú trước khi thực hiện kỹ thuật. Một vòng tròn được vẽ xung quanh cổ núm vú và thiết kế hai vạt tam giác ở vị trí 3 giờ và 9 giờ. Đáy của tam giác (khoảng 5 -> 8 mm) và chiều dài mỗi cạnh của tam giác (khoảng 9 -> 12 mm) được thiết kế theo đường kính của núm vú. Các hình tam giác thường ngắn hơn 1 mm so với đường kính của núm vú. Núm vú được kéo dài bằng chỉ khâu. thực hiện các vết rạch da theo các thiết kế. Vết mổ ở hai bên của hình tam giác được rạch sâu xuống mô mỡ dưới da và giới hạn đáy của hình tam giác ở lớp hạ bì, cho phép vạt da có thể di chuyển vào bên trong. Các bác sĩ phẫu thuật loại bỏ lớp thượng bì ở hình tam giác, nâng các vạt da quần vú lên, và cuối cùng bảo tồn lớp mô mỡ dưới da cho đến vạt. Bác sĩ phẫu thuật dùng kéo đầu tù để cắt bỏ mô dưới da bên dưới núm vú và tránh làm tổn thương các ống dẫn sữa. Cắt ngang các dải sợi bên dưới, và giải phóng núm vú. Nếu núm vú vẫn bị co rút lại sau khi đã cắt ngang các dải xơ, thì bác sĩ phẫu thuật phải cắt ngang hầu hết hoặc tất cả các ống dẫn sữa để giải phóng núm vú.

4.11 Tạo một khe dọc nhỏ trong bó của các ống dẫn sữa để bảo tồn ống dẫn sữa.

Khâu một mũi trên đầu của mỗi vạt quần vú, và chỉ khâu được kéo qua khe mổ nhỏ đến vạt da quần vú bên đối diện. Bằng cách kéo chỉ khâu, 2 vạt da quần vú được tiến lại gần nhau và kéo qua khe và đến gần nhau. Các vạt da nằm ở bên cạnh các ống dẫn sữa còn nguyên vẹn còn lại hoặc bên dưới núm vú sau khi một số hoặc tất cả các ống dẫn sữa đã bị cắt ngang. Khâu lớp hạ bì của núm vú ở mỗi cạnh của vạt tam đã nâng lên bên đối diện. Đóng vết mổ thành hai lớp. Một ví dụ trường hợp đại diện được trình bày trong Hình 15.21. Bệnh nhân mang ống Nhựa định hình trong 1 tuần để kéo đầu vú; để bảo vệ vị trí vết thương, sau đó tháo chỉ khâu. Bệnh nhân hài lòng với kết quả, và núm vú được điều chỉnh của cô duy trì hình dạng mà không bị giảm cảm giác. Sự phục hồi có thể xảy ra ở một số bệnh nhân. Núm vú tụt nặng thể được phải chỉnh sửa lại lần 2.

Hình 15.20 Vạt da quần vú cải tiến có 2 tam giác.
A, Núm vú tụt.
B, Khâu một sợi chỉ khâu kéo đầu núm vú lên, và thiết kế hai vạt hình tam giác.
C, loại bỏ lớp da bề mặt, và nâng vạt nâng lên với mô dưới da.
D, Thiết kế vạt được hiển thị từ bên cạnh.
E, Khâu chỉ ở trên đầu của vạt.
F, Vạt được kéo theo hướng ngược lại và bên dưới núm vú. G, khâu vết mổ.
Hình 15.21 Kết quả của kỹ thuật mổ vạt da quần vú cải tiến có 2 tam giác.
A, Núm vú trước phẫu thuật.
B, Ngay sau phẫu thuật tại chỗ.
C, Sau phẫu thuật.

5 Xử lí biến chứng

Cả núm vú phì đại và núm vú tụt đều có thể gây ra các vấn đề về chức năng và thẩm mỹ mà các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ phải khắc phục. Mỗi kỹ thuật chỉnh sửa đã đề cập có ưu điểm và nhược điểm riêng, và các biến chứng phải được xử lí. Núm vú phì đại có thể là do cho con bú hoặc bệnh lý do di truyền. Nó ít có khả năng tái phát sau khi cắt bỏ các mô dư thừa trên núm vú. Tuy nhiên, một ước tính không chính xác về số lượng mô cần cắt bỏ có thể gây ra sự bất cân đối về kích thước núm vú, và thiết kế sai các đường mổ có thể dẫn đến biến dạng núm vú do sẹo co rút. Sự không đối xứng về kích thước núm vú có thể được sửa chữa bằng cách cắt bỏ các mô dư thừa của núm vú lớn hơn và sẹo co rút cũng có thể được giải phóng với kỹ thuật Z-plasty.

Bảo tồn ống dẫn sữa ở trung tâm cũng là một vấn đề trong điều chỉnh núm vú phì đại. Ở một số bệnh nhân, ví dụ, đầu núm vú không bị phì đại; nó có thể không phải cắt bỏ, do đó bảo tồn được ống dẫn sữa trung tâm. Mặt khác, nếu đầu núm vú có đường kính lớn hơn nền núm vú, có thể cắt bỏ đầu vú để đạt được độ kết quả thẩm mỹ mong muốn. Do đó, trước khi phẫu thuật cần phải cho bệnh nhân biết về khả năng các biến chứng có thể xảy ra.

Tụt đầu núm vú thường do các ống dẫn sữa ngắn hoặc dây chằng của ống dẫn sữa ngắn. Để ngăn ngừa tái phát và đảm bảo kết quả khả quan, các ống dẫn sữa hoặc dây chằng của ống dẫn sữa phải được cắt hoặc giải phóng, bệnh nhân có thể ảnh hưởng hoặc không thể có khả năng tiết sữa. Thật không may, không có phương pháp nào có thể đảm bảo chắc chắn rằng bệnh nhân sẽ có thể cho con bú sau phẫu thuật. Do đó, bệnh nhân phải được thông báo đầy đủ về các biến chứng sau phẫu thuật có thể xảy ra. Các biến chứng sau phẫu thuật khác bao gồm tái phát, không đối xứng núm vú và biến dạng núm vú do sẹo co kéo. Tái phát tụt núm vú có thể được sửa chữa bằng cách giải phóng các ống dẫn hoặc dây chằng ống dẫn sữa ngắn hoặc bằng cách lấp đầy các tổ chức mô mềm ở nền vú sau 1 năm phẫu thuật. Sự bất cân xứng hoặc biến dạng núm vú sau phẫu thuật có thể là kết quả của một lần tái phát một bên hoặc sẹo co rút. Có thể được thực hiện phẫu thuật sửa lại để giải phóng các ống dẫn và dây chằng bị co rút và vết sẹo co rút.

6 Một số điều cần lưu ý

6.1 Núm vú phì đại

Điều quan trọng là phải có ước tính chính xác về số lượng và vị trí của các mô cần được loại bỏ.

Ước tính hình dạng vòm của núm vú và có kích thước chính xác sau khi loại bỏ mô.

Cần bảo tồn phần nhạy cảm nhất của vòm núm vú

Bác sĩ phẫu thuật nên tránh tổn thương ống dẫn sữa ở trung tâm.

Tránh đường rạch thẳng.

6.2 Núm vú tụt

Thông thường chỉ có độ II hoặc III yêu cầu phẫu thuật chỉnh sửa

Bác sĩ phẫu thuật nên giải phóng hoàn toàn các ống dẫn sữa ngắn, các dây chằng và các dải sợi xơ.

Lấp đầy khoang dưới núm vú được giải phóng (ví dụ vạt mô mềm).

Bác sĩ phẫu thuật phải nhận thức được việc cung cấp máu cho núm vú.

Bác sĩ phẫu thuật nên tránh vết mổ nằm thẳng.

7 Kết luận

Một phẫu thuật thành công cho một núm vú phì đại và núm vú tụt nên đơn giản hóa và đáng tin cậy, với tỷ lệ tái phát thấp và không có sẹo nhìn thấy rõ. Núm vú phì đại thường đòi hỏi phải cắt bỏ các mô dư thừa. Để đảm bảo kết quả chức năng và thẩm mỹ tối ưu, việc ước tính chính xác lượng mô phải cắt bỏ là rất quan trọng để tránh sự bất cân xứng của núm vú. Trong khi cắt bỏ các mô dư thừa, bác sĩ phẫu thuật nên tránh làm hỏng ống dẫn sữa ở trung tâm để duy trì khả năng tiết sữa của bệnh nhân và tránh các vết mổ thẳng, có thể dẫn đến sẹo co rút, gây biến dạng núm vú.

Núm vú tụt độ II và III thường đòi hỏi phải giải phóng các ống dẫn sữa và dây chằng ống dẫn sữa ngắn. Mặc dù, bác sĩ phẫu thuật nên tránh làm hỏng ống dẫn sữa ở trung tâm và bảo tồn khả năng tiết sữa là lý tưởng, nhưng không có gì đảm bảo. Thông thường, chìa khóa để thành công trong điều chỉnh tụt núm vú là giải phóng hoàn toàn các ống dẫn sữa và dây chằng bị co rút, và do đó bệnh nhân phải hy sinh khả năng tiết sữa để tránh tái phát. Để đảm bảo kéo dài đầu vú, phải lấp đầy khoang dưới núm vú được giải phóng.


* SĐT của bạn luôn được bảo mật
* Nhập nếu bạn muốn nhận thông báo phẩn hồi email
Gửi câu hỏi
Hủy
    (Quy định duyệt bình luận)
    0/ 5 0
    5
    0%
    4
    0%
    3
    0%
    2
    0%
    1
    0%
    Chia sẻ nhận xét
    Đánh giá và nhận xét
      vui lòng chờ tin đang tải lên

      Vui lòng đợi xử lý......

      0 SẢN PHẨM
      ĐANG MUA
      hotline
      1900 888 633