Kỹ thuật cấy ghép mỡ đang được sử dụng trong y học hiện nay
1 Giới thiệu
Vùng hay cần phải ghép mỡ tự thân nhất trên cơ thể là vùng mặt.
Kiến thức chuyên nghiệp về giải phẫu học và hệ thống hóa tất cả các quá trình ghép mỡ là điều cần thiết để ghép mỡ ở vùng mặt được thành công và tạo sự thoải mái cho cả bác sĩ và bệnh nhân.
Tôi sẽ đưa ra các kiến thức y cơ bản cho việc ghép mỡ và bí quyết tối ưu hóa quy trình phẫu thuật.
2 Phân loại mỡ
2.1 Các lớp ở mặt
Lớp mỡ dưới da của vùng mặt được phân loại dựa trên lớp hệ thống cân cơ nông (SMAS) như sau:
- Lớp mỡ nông
- Lớp mỡ sâu
2.1.1 Lớp mỡ nông
Bao gồm 37% vùng mặt.
Mũi
Má
Trán và thái dương
Mắt
Cằm
Cơ bám da cổ
2.1.2 Mỡ sâu
Mỡ sâu chiếm 43% vùng mặt. Về mặt giải phẫu thì ó hỗ trợ mỡ nông. Khi khối lượng mỡ trong vùng này bị mất hoặc chảy xệ, điều này ảnh hưởng đến hình dạng vùng mặt và hình dạng khuôn mặt, gây lão hóa vùng mặt. Do đó, ghép mỡ ở phần này rất quan trọng để nâng và chống lão hóa.
Các túi mỡ sâu ở mặt như sau(Hình 11.1):
Túi mỡ vùng trán
Đây là một vùng chiếm phần lớn ở phần dưới của trán và phần trên của lông mày. Những người thường nâng cơ trán lên trong trường hợp sụp mi và cau mày, bung trán của cơ chẩm trán đã mất rất nhiều mỡ ở vùng này một cách nhanh chóng so với những người khác.
Khi thực hiện ghép mỡ trán, phải tiêm đủ mỡ vào vùng này.
Túi mỡ vùng mày
Mỡ dưới cơ vòng mi (SOOF): Giảm khối lượng mỡ và chảy xệ của vùng này gây biến dạng rãnh lệ và nếp nhăn ở giữa má, đóng vai trò là nguyên nhân chính của lão hóa ở vùng giữa mặt.
Túi mỡ dưới cằm: Khi lão hóa xảy ra, mỡ bị mất ở vùng này gây ra tình trạng lõm của vùng môi cằm.
Mỡ má sâu trong: Khi thực hiện ghép mỡ ở vùng má thì cần phải có một lượng mỡ tương đối lớn. Vì để nâng mỡ ở vùng gò má bị lõm xuống và cải thiện đường viền của má.
Mỡ má sâu ngoài: Đây là phần bên ngoài trong vùng hõm nằm bên dưới gò má từ má. Mỡ vùng này sẽ thu hẹp lại do lão hóa thì trông vùng này bị lõm xuống.
Nên tránh ghép mỡ quá nhiều ở vùng này vì mỡ có thể di chuyển đến vùng thái dương, và sẽ khiến vùng này trông lõm hơn và mỡ ghép có vẻ như kết tụ lại.
Túi mỡ má: Khi có rất nhiều mỡ trong vùng này, thì thường thực hiện phẫu thuật cắt bỏ mỡ mỡ má sâu hoặc hút mỡ ở túi mỡ má này.
Ngược lại, khi có ít mỡ, có thể có một chỗ hõm ở vùng bên dưới vùng trước malar.
Mỡ dưới cơ bám da cổ: Đây là một khu vực mà thực hiện chủ yếu việc hút mỡ cho vùng dưới cằm.
2.2 Kỹ thuật xử lí mỡ
Mỡ ghép có thể được thu hoạch từhút mỡ để ghép bằng cách sử dụng các kỹ thuật ly tâm (và những người không sử dụng ly tâm) và rửa mỡ (và những người không sử dụng rửa mỡ).
Dung dịch tumescent, máu, lipid tự do và tổ chức hoại tử phải được loại bỏ khỏi mỡ đã xử lí để thu được các tế bào mỡ, giúp giảm thiểu sự tự tiêu đi sau khi ghép mỡ.
Trong nhiều nghiêng cứu, kết quả thu hoạch mỡ khác nhau tùy thuộc vào kỹ thuật sử dụng. Kỹ thuật xử lí ưa thích của mỗi bác sĩ là khác nhau. Tác giả thích xử lí mỡ bằng cách ly tâm. Những lý do cho điều này như sau:
- Không có sự khác biệt trong kết quả lâm sàng so với mỡ không ly tâm.
- Quy trình phẫu thuật trở nên đơn giản hơn, giảm thời gian phẫu thuật và giảm thiểu nhiễm trùng.
- Mỡ ly tâm là mềm và do đó làm giảm áp lực tiêm.
Trong hầu hết các phòng khám, kỹ thuật xử lí mỡ bằng cách sử dụng ly tâm được ưu tiên cho ghép mỡ vùng mặt.
Có thể thực hiện rửa mỡ bằng cách trộn nước muối sinh lí và Cefaclor kháng sinh. Tỷ lệ chung của mỡ và nước muối sinh lí sử dụng để rửa là 1: 1. Sau 10->20 phút, chất lỏng bên dưới mỡ có thể được lắng xuống và sử dụng mỡ còn lại.
Theo cá nhân tôi nghĩ rằng tiêm thuốc Insulin làm tăng tỷ lệ sống của mỡ là không cần thiết.
Một phương pháp không sử dụng máy ly tâm là lọc mỡ bằng cách sử dụng rây mịn. Hay phương pháp khác là sử dụng giấy lọc.
2.3 Các tế bào SVF chứa PRP và các tế bào gốc có nguồn gốc từ mỡ
Huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) giúp tái tạo và điều trị chấn thương mô tế bào thông qua hoạt hóa và bài tiết cytokine và các yếu tố tăng trưởng đã tìm thấy trong các hạt alpha của tiểu cầu.Các yếu tố tăng trưởng được biết đến như sau:
- Yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc tiểu cầu
- Biến đổi yếu tố tăng trưởng
- Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu
- Yếu tố tăng trưởng thượng bì
Dựa trên các nghiên cứu gần đây, tác dụng của PRP như sau:
- Tái tạo xương
- Chữa lành vết thương
- Chữa lành chấn thương cơ xương khớp
- Tăng cường sự sống sót của mảnh ghép mỡ
Một luận án được xuất bản bởi Serra-Mestre và cộng sự. (2014) nói rằng tỷ lệ sống sót của mảnh ghép có thể làm tăng tỷ lệ thuận với lượng PRP và tác dụng phụ của mảnh ghép mỡ có thể được giảm bằng PRP.
Hơn nữa, có thể có kết quả tốt hơn khi sử dụng cùng nhau các tế bào gốc có nguồn gốc từ PRP và mỡ (Seyhan et al. 2015).
3 Phương pháp hút mỡ
Lấy mỡ bằng cách sử dụng máy hút và hút bằng tay
Tôi muốn cho mọi người biết là lực hút không vượt quá -0.6 và hút mỡ bằng tay là hút dưới áp suất –0.6.
Khi thực hiện ghép mỡ ở vùng mặt 180 ml thì nên hút mỡ.
Lượng mỡ này có thể được thu được từ việc hút thủ công bằng cách sử dụng ống tiêm có khóa và do đó không cần sử dụng lực hút cơ học (như máy rung và máy hút chân không) để hút một lượng lớn.
Tuy nhiên, trong trường hợp ghép mỡ ở vú, cần phải hút một lượng mỡ lớn, chẳng hạn như 600->1500 mL (trong trường hợp ghép tế bào gốc từ mỡ), và do đó sử dụng thiết bị máy hút là tốt hơn.Theo một luận án được xuất bản năm 1994 (Niechajev et al. 1994), khi áp suất hút vượt quá 0.5, một biến dạng xảy ra trong màng của tế bào mỡ.
Áp suất hút bằng ống tiêm khóa bên dưới −0.6. Tuy nhiên, theo một luận án đã xuất bản năm 1997 (Lalikos et al. 1997),không có sự khác biệt đáng kể về tổn thương tế bào mỡ giữa hút bằng máy và hút bằng tay.
Kết quả của hai luận án này không tương đồng. Tác giả cho rằng không có sự khác biệt đáng kể về kết quả ghép mỡ giữa phương pháp hút mỡ bằng cách sử dụng ống tiêm có khóa và phương pháp hút bằng máy.
3.1 Vùng được lấy mỡ
Theo hai luận án (Rohrich et al. 2004; von Heimburg et al. 2004), tỷ lệ sống sót của các tế bào mỡ được chiết xuất từ từ vùng bụng, đùi, eo và hông là không khác nhau.
Khi nhìn vào kinh nghiệm của hàng ngàn bệnh nhân, tôi thực hiện ghép mỡ bằng cách hút mỡ từ hai bên ngoài và giữa của đùi, eo, bụng và cánh tay, nhưng dường như không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sống sót.
Tác giả cho là hai bên ngoài đùi là vùngưu tiên lấy mỡ. Nếu độ dày mỡ của mặt ngoài đùi nhiều hơn 3.0 cm nhìn thấy trên USG, có thể thực hiện đủ lực hút.Những lý do để chọn đùi là vùng hút mỡ ưu tiên hàng đầu như sau:
- Hút mỡ là dễ nhất.
- Đây là vùng ít chảy máu nhất.
- Đây là vùng ít xảy ra tình trạng da không đều và lõm da sau khi hút lấy mỡ.
3.2 Lớp để tiêm mỡ
Năm 1999, kỹ thuật tiêm vào cơ mặt bằng mỡ tự thân (FAMI) được giới thiệu bởi Roger E. Amar. Nó bao gồm tiêm mỡ vào các cơ ở mặt . Kỹ thuật này đã giúp có thể tiêm một lượng mỡ lớn hơn nhiều và giúp vùng mặt đầy hơn thấy rõ.
Theo một luận điểm khác của Amar và Fox (2011), khi tiêm-mỡ vào các lớp cơ khác nhau và lớp sâu bằng kỹ thuật FAMI, nó giúp tăng cường vĩnh viễn kích thước vùng mặt với một mảnh ghép ở 80% 90% bệnh nhân.
Để tổng hợp lớp tiêm mỡ dựa trên kinh nghiệm của hàng ngàn mảnh ghép mỡ, trong trường hợp ở vùng trán, thái dương và cằm, tốt hơn là tiêm mỡ vào các lớp khác nhau, bao gồm một lớp bên dưới cơ, một ít mỡ vào cơ và một lớp vào lớp mỡ dưới da. Trong trường hợp của má, tốt nhất là tiêm hầu hết mỡ vào lớp mỡ.
3.3 Độ sống của mỡ ghép
Trong một nghiên cứu về tỷ lệ sống sót của mỡ ghép bởi Zhuetal. (2016), một thực hiện thử ng-hiệm quét 3D sau phẫu thuật ghép mỡ 3, 6 và 12 tháng với số lượng mục tiêu là 22 bệnh nhân.
Thể tích mỡ trung bình được tiêm là 18 ± 12,68 mL. Lượng mỡ sống sót trung bình là 11,61 ± 7,58 mL sau 3 tháng, 9,05 ± 5,59 mL sau 6 tháng và 7,97 ± 4,57 mL sau 12 tháng.Lượng mỡ ghép còn lại trong các tổ chức mô của người nhận là 28,94 ± 56,25% (trung bình 44,53 ± 6,32%) sau 12 tháng sau khi phẫu thuật.Luận án này giải quyết những nghi ngờ của nhiều bác sĩ về tỷ lệ sống sót của mỡ. Tuy nhiên, lượng mỡ ghép trong luận án này không cao. Một điểm mà tỷ lệ sống của mỡ có thể khác nhau khi một lượng mỡlớn được ghép đã mất đi như một biến.
Tác giả nghĩ rằng tôi, với tư cách là một bác sĩ thực hiện ghép mỡ, nên nghiên cứu tỷ lệ sống sót của mỡ.
Cơ chế lưu thông máu lúc đầu được Peer biết đến vào những năm 1950 thông nối giải phẫu trong mạch máu ởvùng ghép hiện có và ghép mỡ. Theo một ng-hiên cứu của Pu (2016), các khái niệm mới đã được phát hiện nhờ vào những cải tiến trong lý thuyết tương đương tế bào già yếu của Peer và các tế bào gốc có nguồn gốc từ mỡ (ADSC).
3.4 Lượng mỡ hút (Theo tác giả)
Toàn bộ mặt: Trong ghép mỡ: 120 mL cho ghép lần thứ nhất và lần thứ hai 180 mL.
Trán, Má : Trong ghép mỡ: 60 mL cho ghép lần thứ nhất và lần thứ hai 90 mL.
3.5 Ly tâm mỡ
Sử dụng tốc độ 3000 vòng / phút trong 3 phút. Trong quá trình ly tâm, tốt nhất nên sử dụng bộ hẹn giờ trong 3 phút (Hình 11.2).
Tôi chủ yếu sử dụng máy ly tâm mà bạn thấy trong hình 11.3, vì tôi có thể đặt toàn bộ ống tiêm có khóa vào máy ly tâm.Ống tiêm chứa liều mỡ bằng nhau nên đặt đối xứng nhau.
Quá trình ghép mỡ có thể sẽ rút ngắn nếu hai máy ly tâm cùng sử dụng cùng một lúc.
4 Quy trình phẫu thuật
4.1 Chuẩn bị phòng mổ
Chuẩn bị dung dịch tu-mescent ở phía bên phải của bàn mổ. Xác định vị trí bơm tiêm dung dịch tumescent ở phía dưới bêntrái của bàn mổ.
Xác định vị trí xe để dụng cụ nơi các dụng cụ phẫu thuật được sử dụng cho phẫu thuật đặt ở phía bên phải.
Sử dụng một tấm vải OP đã vô trùng lớn và hai tấm săng mổ cỡ trung bình.
Một ống tiêm có khóa 10 ml để hút mỡ (một nắp ống tiêm khóa tiệt trùng dùng một lần: chuẩn bị riêng), mes, ống tiêm mỡ, ống can-nula tiêm dung dịch tumescent, ống chuyển mỡ. Cần có:chỉ nylon 6/0, potadine, gạc và awl (Hình 11.4, 11.5, 11.6 và 11.7).
4.2 Vùng lấy mỡ
Đánh dấu một điểm để tiêm dung dịch tumescent vào vùng mặt ngoài đùi (Hình 11.8). Nên thiết kế rộng hơn vùng gồ lên ở đùi. Nên thiết kế rộng hơn xuống phía dưới hơn so với vùng gồ lên của đùi để bao gồm vùng mặt ngoài của kheo. Điều này là do vùng này có thể bị lõm vào khi hút quá nhiều vùng gồ
lên của đùi. Vì vậy, tốt hơn là hút bao gồm cả vùng phía ngoài của kheo để tránh điều này.
Khi việc hút mỡ từ đùi gặp khó khăn, tôi thích hút mỡ vùng sườn là lựa chọn thứ hai (Hình 11.9). Lý do thích vùng 2 bên sườn là vì khi hút vùng bụng thường có thể xảy ra tình trạng không đều da và lõm da. Hơn nữa, cần nhiều thời gian hơn để hút mỡ bụng trong khi chúng ta chỉ cần ít mỡ.
Theo kinh nghiệm của tôi, không có nhiều sự khác biệt về tỷ lệ sống sót của mỡ ghép giữa bụng và sườn.
4.3 Tiêm dung dịch tumescent
Đối với dung dịch tumes-cent, sử dụng nước muối sinh lí 1000 mL + epinephrine 1 A + lido-caine 2%30 mL + bicarbonate 10 mL.
Thông thường, khi tiêm dung dịch tumescent, sử dụng ket-amine 0,4 mL + Propofol 6 mL để gây mê cho bệnh nhân ngủ.
Theo một nghiên cứu được thực hiện bởi Goldman et al. (2016), Lidocaine có tác động không tốt đến sự sống của ADSC.
Trong nhóm sử dụng dung dịch tumescent với lidocaine, độ sống trung bình của các tế bào phân đoạn mạch máu (SVF) là 68,0% ± 4,0% (28,5% ± 3,8% tế bào mỡ tự tiêu và 3,4% ± 1,0% hoại tử). Trong nhóm sử dụng dung dịch tumescent không có lidocaine thì các tế bào SVF còn sống trung bình là 86,7% ± 3,7% (11,5% ± 3,1% tế bào mỡ tự tiêu và 1,8% ± 0,7% hoại tử). Do đó, không nên sử dụng lidocaine, vì khi không cólidocaine trong dung dịch tumescent, nó có thể làm giảm quá trình tự tiêu của SVF và ASC.
Tuy nhiên, trong trường hợp ghép mỡ bằng tế bào gốc, ng-hiên cứu được đề cập ở trên của Goldman không có nhiều ý nghĩa. Trong hầu hết các trường hợp ghép mỡ bình thường, kết quả của nghiên cứu này có ý nghĩa.
Các yếu tố khác với tế bào SVF, chẳng hạn như lượng mỡ và kỹ năng kỹ thuật của người lấy mỡ tiêm là rất quan trọng đối với các mảnh mỡ ghép. Do đó, tôi nghĩ rằng cần nghiên cứu thêm về tính hợp lí của việc không sử dụng lido-caine (Hình 11.10).
Có một số bác sĩ khăng khăng rằng tăng sắc tố sau viêm (PIH) do ma sát của ống cannula ít hơn khi đường rạch da lớn. Một thực tế không thể phủ nhận là nó tốt hơn với kích thước vết mổ nhỏ (Hình 11.11). Ít PIH không liên quan đến kích thước vết mổ.
Các yếu tố khác với tế bào SVF, chẳng hạn như lượng mỡ và kỹ năng kỹ thuật của người lấy mỡ tiêm là rất quan trọng đối với các mảnh mỡ ghép. Do đó, tôi nghĩ rằng cần nghiên cứu thêm về tính hợp lí của việc không sử dụng lido-caine (Hình 11.10).
Có một số bác sĩ khăng khăng rằng tăng sắc tố sau viêm (PIH) do ma sát của ống cannula ít hơn khi đường rạch da lớn. Một thực tế không thể phủ nhận là nó tốt hơn với kích thước vết mổ nhỏ (Hình 11.11). Ít PIH không liên quan đến kích thước vết mổ.
Với một kỹ thuật đơn giản giúp giảm bớt tình trạng tăng sắc tố da trong quá trình phẫu thuật qua lại của ống hút (Hình 11.12), PIH có thể sẽ giảm đi.
Tiêm 700->800 ml dung dịch tumescentvào cho cả hai đùi (Hình 11.13, 11.14 và 11.15). Đôi khi có thể tiêmlên đến 1000 mL. Đây là lượng dung dịch tumes-centtốt nhất mà chúng ta tiêm để hút ra 180 mL mỡ. Chảy máu có thể tăng lên khi tiêm một lượng dung dịch tumescent nhỏ hơn.
4.4 Hút mỡ
Nếu hút mỡ sau 15 phút tiêm dung dịch tumescent, có thể gần như không chảy máu.Nếu độ dày của lớp mỡ ở mặt ngoài đùi hơn 4 cm khi xem tự siêu âm USG, thì tốt nhất là tiêm dung dịch tumescent càng sâu càng tốt.
Tốt nhất nên hút ở lớp sâu nhất của lớp mỡ.
Lí do cho điều này:
Có thể tránh làm hõm da, có thể xảy ra khi hút mỡ ở lớp quá nông.
Rất dễ dàng để lấy mỡ mà ít chảy máu.
Khi quan sát mỡ được tách ra, có thể nhìn thấy dung dịch tu-mescentchìm xuống đáy của ống tiêm (Hình 11.16, 11.17 và 11.18).
Điều này nên lấy bỏ, dùng ống tiêm 1 lần sau khi ly tâm.
4.5 Ly tâm mỡ
10 ml mỡ hút trong ống tiêm 10 ml sẽ có trung bình 6 mL mỡ để ghép sau khi ly tâm (Hình 11.19 và 11.20).
4.6 Chuẩn bị mỡ để ghép
Đây là mỡ được chuyển từ ống tiêm khóa 10 ml sang ống tiêm có khóa 1 ml (Hình 11.21).
4.7 Bảo quản mỡ còn lại
Bảo quản mỡ: giấy ghi tên bệnh nhân trên túi Ziploc. Điều này là để xác định chính xác bệnh nhân khi muốn thực hiện ghép mỡ lần thứ hai (Hình 11.22 và 11.23). Mặc dù tác giả có một hệ thống bảo quản cấp đông ở nhiệt độ cực thấp bằng sử dụng nitơ lỏng, nhưng đối với các ghép mỡ thông thường, tôi sử dụng một tủ đông riêng để lưu giữ, có thể giảm nhiệt độ xuống −27°C (Hình 11.24, 11.25 và 11.26).
5 Thiết kế vùng mặt
Hình 11.27 và 11.28 cho thấy thiết kế vùng mặt từ các góc độ khác nhau.
Cần thiết cho việc ghép mỡ vùng mặt
Nên tiêm nhiều mỡ hơn khi xem xét rằng mỡ sẽ bị tiêu di.
Trong trường hợp tiêm mỡ, quá trình hình thành các mạch máu sẽ xảy ra sau khoảng 1 tháng và mỡ có thể bị tiêu đi cho đến trong khoảng thời gian này.
Lượng mỡ tiêu đi có thể khác nhau tùy thuộc vào thời gian kể từ khi thực hiện ghép mỡ.
Thông thường, 45% bị tiêu đi sau 12 tháng.
Lỗ để tiêm mỡ
Có thể tiêm mỡ vào các vùng trên mặt như sau (Hình 11.29):
Giữa mặt
Thông thường, tạo các lỗ để tiêm mỡ ở phía trước tai và ở rãnh mũi má. Đôi khi, tạo một lỗ ở má nằm ở dưới mắt. Ngoài ra, có thể tạo ra lỗ ở phía bên ngoài của môi, nhưng tác giả không thích sử dụng vùng này do môi hay bị sưng lên. Trong trường hợp giữa mặt, tiêm mỡ vào lớp mỡ dưới da rất dễ dàng. Tiêm mỡ vào lớp mỡ sâu bên dưới SMAS thì không dễ dàng tí nào.
Cả hai lớp phải được tiêm mỡ.
Tuy nhiên, tôi tiêm nhiều mỡ hơn vào lớp mỡ ở nông.
Cằm
Có thể thực hiện tạo lỗ ở cả hai bên cằm. Tác giả thích tạo lỗ ở một bên.
Trong trường hợp ở cằm, tôi tiêm mỡ vào lớp dưới cơ. Tôi cũng tiêm mỡ vào lớp cơ và lớp mỡ dưới da.
Trán
Tạo một lỗ ở giữa trán và thêm một lỗ khác ở giữa phía trên trán và hai lỗ ở phía bên ngoài trán.
Khi thực hiện ghép mỡ ở trán, nên xem xét độ nhô của trán ra phía trước, chỗ hõm ở giữa trán và chỗ hõm ở vùng phía trên lông mày vì khung xương trán phát triển nhô ra trước.Khi bệnh nhân cau mày sau khi tiêm mỡ, có thể có sự bất thường ở vùng trán.
Bệnh nhân nên tìm cách điều trị bằng Botox cho vùng trán, 3 ngày trước khi tiêm mỡ.
Khi thực hiện tiêm ở vùng trán, có thể tiêm mỡvào sống mũi thông qua lỗ đã tạo ra ở giữa trán. Tất nhiên, tỷ lệ mỡ có thể sống ở vùng sống mũi là thấp.
Mắt lõm
Có thể tiêm 1ml mỡ ghép vào các phần nhô ra của mí mắt. Đôi khi tác giả tiêm mỡ chưa được li tâm.
Gây tê tại vị trí rạch da
Tạo lỗ vào bằng Awl
Tác giả không thích rạch vết mổ bằng mes trong trường hợp ghép mỡ mặt. Do đó, không cần khâu vết thương sau phẫu thuật và cũng không có sẹo (Hình 11.31 và 11.32).
Tiêm mỡ
Tôi khuyên người mới tiêm nên tiêm mỡ bằng ống tiêm theo hướng lùi kim.
Tác giả tiêm mỡ bằng ống tiêm theo cả hai hướng. Nếu bác sĩ phẫu thuật làm quen với việc tiêm mỡ ở một mức độ nào đó, nên tiêm mỡ theo cả hai hướng.
Ống tiêm mà tác giả sử dụng là kim Ichida. Điều này có nghĩa là cố định phần cuối của ống tiêm ở cơ lòng bàn tay. Đặt 0,7 mL mỡ vào ống tiêm bằng ống tiêm có khóa 1 ml (Hình 11.33). Phương pháp tiêm này cho phép hoàn thành các quy trình tiêm nhanh nhất so với các kỹ thuật khác. Tôi cũng cảm thấy rằng đây là độ bám ổn định nhất.
Trong trường hợp lõm nhiều 1 bên má, tránh tiêm mỡ quá nhiều. Đây là vùng dễ bị nhô hay gặp nhất sau khi tiêm mỡ quá nhiều.
Tiêm mỡ chủ yếu tập trung vào túi mỡ má trong. Tiêm mỡ vào vùng má bị lõm và vết lõm ở giữa má của vùng má trước (Hình 11.34).
Có thể tiêm mỡ vào vùng má trước thông qua một lỗ ở rãnh mũi má và các lỗ ở vùng má bên dưới góc mắt ngoài (Hình 11.35).Ở vùng thái dương, có thể tiêm mỡ qua các vùng phía trên trán (thể hiện trong hình 11.36) và bên ngoài má (Đây là mặt ngoài của má. Lỗ này đã được tạo ra khi thực hiện ghép mỡ ở má).
Sau khi ghép mỡ, vùng thái dương có thể bị sưng to lên. Đây là sưng tạm thời, và không phải do xuất huyết. Nó có thể biến mất sau 10 ->20 phút khi băng ép.
Trong trường hợp ghép mỡ ở trán, tiến hành ghép qua bốn lỗ tiêm: một ở giữa đường chân tóc của trán (Hình 11.37), hai lỗ ở cả hai bên ngoài trán và một lỗ ở giữa trán (Hình 11.38). Tiêm mỡ xuyên qua bốn lỗ đã tạo ra.
Bước cuối cùng của ghép mỡ trán là tiêm mỡ bằng cách sử dụng một lỗ được tạo ra ở giữa trán. Điều này cho phép tiêm mỡ dễ dàng và đối xứng nhau với vùng lõm phía trên lông mày và đến các vùng lõm ở bên ngoài trán.
Có thể tiêm mỡ qua các lỗ được tạo ra ở cả hai lông mày để giảm sẹo do lỗ tiêm. Tuy nhiên, tác giả cho rằng tốt hơn là tạo một lỗ tiêm ở giữa trán và tiêm mỡ qua lỗ này để tiêm mỡ đối xứng được dễ dàng hơn.
Ghép mỡ vào các vùng khác
Lõm mí mắt
Tôi tiêm 1 ml mỡ cho mỗi mí mắt. Nên tránh ghép quá nhiều. Ghép không được khuyến cáo khi bệnh nhân bị sụp mi và chảy xệ mí mắt nghiêm trọng.
Môi
Tỷ lệ sống thấp, và đó là một vùng khó khăn để ghép mỡ. Vấn đề lớn nhất là không thể thực hiện chi tiết hình dạng của môi. Gần đây, tôi đã sử dụng filler chủ yếu để tiêm một cách tỉ mỉ hơn.
Khi sử dụng chất làm đầy, có thể thực hiện các thao tác phức tạp hơn, chẳng hạn như nâng góc miệng, tạo ra hình dạng khác nhau của môi trên và môi dưới và tạo đường viền môi.
Cằm
Khá nhiều mỡ có thể tiêm vào vùng này. Nếu một bệnh nhân muốn làm cho nó lớn hơn và đầy hơn ở vùng này, ban đầu chỉ nên tiêm 1 ->3 ml. Nếu một bệnh nhân đã ghép mỡ vào các vùng khác của vùng mặt với cằm, sử dụng tiêm mỡ. Trung bình, vùng này tiêm khoảng khoảng 5 ml mỡ (Hình 11.39).
6 Biến chứng
6.1 Nang
Có khả năng tạo u nang là rất thấp, vì đây không phải là một lượng lớn mỡ ghép. Có thể bị vón cục vì u nang dầu sau khi ghép mỡ.
Độ cứng có thể phát hiện khi mỡ bị hoại tử hoặc bị vôi hóa xảy ra sau khi nang dầu hình thành. Điều này có thể gây đau, và nhìn bên ngoài rất khó chịu. Vì vậy, có thể cần thiết phải phẫu thuật cắt bỏ.
6.2 U mỡ
Các khối u mỡ có thể xảy ra ở những vùng được tiêm mỡ quá nhiều, hoặc mỡ có thể dễ dàng bị quá phát.
Nếu nó nhỏ, không cần điều trị đặc biệt gì. Nếu một bệnh nhân không hài lòng rằng các khối u lớn hoặc nếu có đau, họ nên được loại bỏ.
Có thể thực hiện loại bỏ khá đơn giản. Kiểm tra vùng u bằng siêu âm. Tiêm dung dịch tumes-cent chính xác cho vùng này. Sau đó, sử dụng thiết bị phân giải mỡ ULTRA-Z để phân giải khối u này sẽ cho một kết quả tốt. Trong một số trường hợp, vùng này có thể được hút bằng ống tiêm có khóa.
Có thể cải thiện tạm thời bằng cách sử dụng steroid (triam-cinolone). Tuy nhiên, trong trường hợp tiêm steroid quá nhiều, có thể có bị lõm da khi các khối u biếnmất.
Khối u thường xuất hiện ở vùng má hoặc dưới má.
6.3 Viêm do mỡ hoại tử
Lượng mỡ được tiêm trên mặt không quá nhiều so với lượng mỡ tiêm ở vú, do đó tình trạng viêm do hoại tử mỡ không xảy ra.
6.4 Nhiễm trùng
Đây là biến chứng nguy hiểm nhất trong ghép mỡ. Điều rất quan trọng là phải vô trùng triệt để trong tất cả các quy trình của phẫu thuật.
6.5 Sưng
Sưng nề nhiều nhất xảy ra sau tiêm mỡ từ 2-> 3 ngày. Phần lớn sưng có thể biến mất vào khoảng ngày thứ bảy.
Bệnh nhân đã nhận được mỡ ghép có thể nhầm lẫn sưng trong giai đoạn này cho ảnh hưởng của mỡ ghép. Họ có thể phàn nàn rằng mỡ ghép đã bị tiêu đi quá nhanh. Vì lý do này, quá trình sưng này nên giải thích trong quá trình trao đổi với bệnh nhân về phẫu thuật ghép mỡ.
6.6 Chảy máu
Khả năng xuất huyết sau khi ghép mỡ là thấp. Ngay cả một lượng nhỏ xuất huyết trên trán cũng có thể chảy xuống vùng mắt, điều này có thể làm tăng sự không hài lòng của bệnh nhân.
6.7 Chạy mỡ ghép đi chỗ khác
Mỡ ghép rơi xuống do trọng lực có thể xảy ra nếu tiêm quá nhiều mỡ vào vùng má hoặc tiêm vào phần dưới của má.
6.8 Không đối xứng
Sự bất cân xứng chủ yếu xảy ra khi tiêm lượng mỡ vào mỗi bên trái và bên phải. Nó cũng có thể xảy ra trong quá trình sống sót của mỡ sau khi ghép. Sự bất đối xứng thường phải xử lí bằng phương pháp ghép mỡ lại lần thứ hai.
6.9 Vấn đề da bị mụn
Tình trạng da mụn có thể trở nên tồi tệ tạm thời trong 1 ->2 tháng sau khi ghép mỡ. Giải thích đầy đủ cho bệnh nhân về điều này là cần thiết trước khi phẫu thuật ghép mỡ.Có thể cần thiết phải dùng thuốc điều trị mụn trứng cá nếu mụn trứng cá trở nên tồi tệ hơn.
6.10 Lõm da hoặc không đều của vùng hút mỡ
Hút mỡ không có kỹ năng trong vùng lấy mỡ có thể gây ra tình trạng lõm da hoặc không đều. Do đó, kỹ năng hút mỡ thành thạo là rất quan trọng. Trước khi học một kỹ thuật ghép mỡ, bác sĩ phẫu thuật đã làm quen đầy đủ với các kỹ thuật hút mỡ.
7 Điều trị sau phẫu thuật
Không có xử lí đặc biệt nào là cần thiết sau khi phẫu thuật ghép mỡ. Vì tác giả tạo ra một lỗ vào bằng cách sử dụng dùi awl, không cần khâu vết thương, điều đó có nghĩa là khâu cũng không cần thiết.Trong 1 tuần sau khi phẫu thuật, nên dùng túi chườm lạnh để giảm sưng.
Ảnh trước và sau phẫu thuật
8 Ghép mỡ vào ngực
Ghép mỡ tự thân ở vú đòi hỏi một lượng mỡ lớn và bí quyết
Hút mỡ
Lấy mỡ
Tiêm mỡ
Nếu bác sĩ phẫu thuật thiếu một trong ba lĩnh vực này, anh ta hoặc cô ta không thể thực hiện ghép mỡ ở vú thành công và thỏa đáng.
Chọn một bệnh nhân phù hợp cũng rất quan trọng. Đủ mỡ từ bênh nhân để lấy bằng cách hút mỡ trên bệnh nhân. Bệnh nhân cũng phải có một khối lượng vú vừa phải. Sẽ không tốt nếu vú của bệnh nhân quá nhỏ. Những điều kiện này làm tăng sự hài lòng của bệnh nhân sau khi thực hiện phẫu thuật ghép mỡ vào vú.
Ba câu hỏi dưới đây sẽ là điểm gây tò mò nhất cho một bác sĩ lần đầu tiên gặp phải một ca ghép mỡ ở vú:
- Những loại bệnh nhân nào có thể trải qua phẫu thuật này?
- Tỷ lệ sống như thế nào đối vớighép mỡ ở vú?
- Ghép mỡ vú có thực sự an toàn không?
Tôi muốn giải thích những điểm này và bí quyết của tôi liên quan đến ghép mỡ ở vú.
Ghép mỡ tự thân chưa phải là một phương pháp phẫu thuật đã chuẩn hóa. Nó chỉ phụ thuộc vào kỹ năng và phương tiện của học viên, và phòng phẫu thuật.
Cá nhân tôi nghĩ rằng ng-hiên cứu hiệu quả về ghép mỡ vú là cần thiết từ góc độ lâu dài, và theo dõi lâu hơn về các biến chứng của ghép mỡ ở vú và mối quan hệ của mỡ với ung thư vú là điều cần thiết.
Tỷ lệ sống cho mảnh ghép mỡ ở vú
Largo và cộng sự. (2014) đã phân tích các nghiên cứu, trong đó có nói đến 1453 bệnh nhân ghép mỡ. Trong 6% bệnh nhân có một biến chứng cần điều trị phẫu thuật xảy ra. Ung thư vú xảy ra ở 0,1% bệnh nhân. Thể tích vú tăng 55% ->82% sau ghép mỡ. Không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy việc ghép mỡ ở vú gây ung thư vú, nhưng cần phải theo dõi lâu dài hơn cho việc này.
Peter và cộng sự. (2016) đã phân tích tỷ lệ sống của mỡ bằng cách sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) sau khi ghép mỡ tự thân vào vú (Bảng 12.1).
12 tháng sau khi ghép mỡ ở vú, tỷ lệ sống của mỡ được đo đã thay đổi từ 30 ->90%.
Sự thay đổi về kích thước vú nên được đo sau khi phẫu thuật ghép mỡ vú và xem xét hình dạng thay đổi của vú, vì các mảnh ghép A và B, chỉ định các điểm tham chiếu, là bờ trên vú và bờ dưới vú, thay đổi (Hình 12.1 và 12.2) .
Hình 12.3 cho thấy mỡ ghép 1 tháng sau khi ghép mỡ ở vú do tác giả thực hiện. Bạn có thể thấy rằng mỡ ghép vẫn chưa được sống ở vú hoàn toàn.
Quan sát thấy có sự phát triển mạch máu mới xung quanh mãnh mỡ ghép.
Vú nào thích hợp cho phẫu thuật ghép mỡ
Vú có kích thước lớn giữa cup size A
Vú không đối xứng
Vú chảy sệ dưới độ 2
Bệnh nhân bị cắt bỏ một số bộ phận của vú vì ung thư vú
Tái tạo lại kích thước vú sau khi lấy Silicon ra khỏi vú
Có sẵn vùng để hút mỡ
Cánh tay, bụng, bikini, đùi đều có khả năng hút mỡ.
Nếu bệnh nhân không có sở thích về một vùng cụ thể để hút mỡ và chỉ muốn ghép mỡ lên vú, thì nên sử dụng vùng mặt ngoài đùi làm vùng hút mỡ ưu tiên hàng đầu, vì vùng này là nơi dễ dàng nhất để hút mỡ.
Tuy nhiên, nếu bệnh nhân đã được hút mỡ ở đùi hoặc không có đủ mỡ ở đùi thì vùng bụng hoặc vùng bikini là vùng ưu tiên thứ hai.
Nếu khó hút mỡ từ bụng, vùng bikini và đùi hoặc nếu bệnh nhân muốn hút mỡ cánh tay thì việc hút mỡ từ cánh tay và sau đó sử dụng mỡ này để ghép lên vú cũng là điều tốt.
Được biết, tỷ lệ sống sót của mỡ được lấy từ cánh tay là thấp, vì có nhiều mô sợi trong cánh tay. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của tác giả, không có sự khác biệt về tỷ lệ sống sót của mỡ được hút từ cánh tay so với các bộ phận khác của cơ thể.
8.1 Phương pháp hút mỡ
Kỹ thuật thủ công
Phương pháp sử dụng ống tiêm có khóa
Đối với ghép mỡ ở vú, chủ yếu sử dụng ống tiêm khóa 10 ml, 20ml, 50 ml. Phương pháp này không dễ dàng để hút lấy một lượng lớn mỡ.
Trước mổ | >3h | 4 tháng | 12 tháng | Mỡ ghép(ml) | ||
Bệnh nhân 1 | Vú phải | 0 (593.0) | 332.2 (925.1) | 212.2 (805.1) | 152.0(745.0) | 300 |
Vú trái | 0 (592.7) | 326.1 (918.8) | 206.5 (799.1) | 143.4(736.5) | 300 | |
Bệnh nhân 2 | Vú phải | 0 (575.9) | 308.2 (884.1) | 119.5 (695.4) | 171.5 (747.4) | 260 |
Vú trái | 0 (543.3) | 334.8 (878.1) | 128.4 (671.7) | 180.0 (723.3) | 260 | |
Bệnh nhân 3 | Vú phải | 0 (747.8) | 391.6 (1139.4) | 266.4(1014.2) | 296.7 (1044.5) | 327 |
Vú trái | 0 (726.2) | 383.6 (1109.8) | 265.7 (991.9) | 290.0 (1016.2) | 330 | |
Bệnh nhân 4 | Vú phải | 0 (967.8) | 300.5 (1268.3) | 202.9 (1170.7) | 84.1 (1051.9) | 280 |
Vú trái | 0 (933.5) | 315.7 (1249.2) | 188.7(1122.2) | 103.4 (1036.9) | 250 |
Thay đổi kích thước vú, cm3(kích thước tổng thể vú, cm3)
Đây là phương pháp đã sử dụng trong một số phòng khám nơi không có sẵn thiết bị phù hợp và việc thực hiện hút mỡ bằng các công cụ rẻ tiền. Điều này thường được gọi là hút mỡ thủ công, có nghĩa là, sử dụng thiết bị hút dễ dàng tìm thấy trong phòng phẫu thuật thẩm mỹ. Gần đây, cả máy kết hợp tiêm dung dịch tumescent và máy hút chân không đã thấy bán trên thị trường.
8.2 Phương pháp sử dụng dụng cụ hút mỡ
Có thể hút một lượng lớn mỡ trong một thời gian ngắn bằng cách sử dụng các thiết bị hút mỡ như EVA và Microair (Made in America).
8.3 Phương pháp sử dụng thiết bị hút mỡ và tách mỡ để ghép ngay lập tức
Các thiết bị như Lipokit và Harvest-jet đang có mặt trên thị trường.
Đây là một phương pháp tốt để chọn cho một ghép mỡ bình thường nơi các tế bào SVF không được sử dụng.
Tổ chức tế bào mỡ sau khi hút bằng thiết bị rung
Từ việc nhìn vào kiến thức thông thường đang có, người ta biết rằng nếu hút mỡ bằng thiết bị rung, tỷ lệ sống của tế bào mỡlà thấp do sự phá hủy tế bào mỡ. Tuy nhiên, từ kết quả của năm lần kiểm tra mô tế bào của mỡ được hút từ thiết bị rung, không có sự khác biệt trong các mô tế bào mỡ, điều này có thể dẫn đến sự khác biệt về tỷ lệ sống sót. Đã có kết quả tốt về tỷ lệ sống sau khi ghép mỡ.
Tôi đã hút mỡ ở 05 bệnh nhân bằng cách hút mỡ từ đùi bằng hai phương pháp khác nhau với thiết bị EVA. Sau đó, tôi tiến hành phân tích mô mỡ.
Một phương pháp là hút mỡ khi chế độ rung BẬT và một phương pháp khác là hút mỡ khi chế độ rung TẮT.
Trong kết quả kiểm tra mô tế bào mỡ của từng kỹ thuật hút, không có sự khác biệt đáng kể nào cho thấy một phương pháp này tốt hơn phương pháp kia.
Tôi dự định tiến hành ng-hiên cứu bổ sung bằng thiết bị rung sử dụng EVA và tôi mong muốn nhìn thấy các tài liệu báo cáo tốt từ các phòng khám khác (Hình 12.4, 12.5, 12.6, 12.7, 12.8,12.9, 12.10, 12.11, 12.12 và 12.13).
8.4 Hút mỡ và Quy trình xử lí mỡ
Hoàn thành sắp xếp phòng mổ trước khi phẫu thuật
Khi sắp xếp thiết bị hút mỡ để ghép mỡ ở vú bằng cách sử dụng EVA, cần có kính tiệt trùng chân không (Hình 12.14). Kết nối dụng cụ này với tay cầm EVA và thân chính của EVA (chức năng hút mỡ).
Điều này là để ghép mỡ vào vú đã chiết xuất từ cánh tay bằng cách sử dụng hút mỡ.
Hút đủ mỡ vào chai thủy tinh vô trùng
Lấy bỏ dịch màu đỏ ở đáy chai thủy tinh
Hình 12.16 và 12.17 cho thấy còn dịch.
Rửa mỡ bằng 500 ml nước muối sinh lí
Sau khi rửa mỡ để loại bỏ dịch màu đỏ ở đáy chai thủy tinh
Hình 12.19 và 12.20 cho thấy dịch màu đỏ.
Chuyển mỡ bên trong chai thủy tinh vào cốc và trộn với kháng sinh Cefaclor
Hình 12.21 và 12.22 cho thấy mỡ đã chuyển vào cốc và trộn với kháng sinh.
Chuyển mỡ vào syringe vô trùng 50 ml
Bác sĩ phẫu thuật cần phải làm việc trong phòng vô trùng để ly tâm mỡ ghép (Hình 12.23). Anh ta hoặc cô ta cần phải vô trùng-phòng làm việc trước và thực hiện công việc bởi các nhà nghiên cứu.
Mỡ ly tâm sử dụng máy ly tâm
Hình 12.24 cho thấy quy trình ly tâm mỡ.
Chuyển mỡ đã ly tâm sang Syringe 50-mL
Hình 12.25 cho thấy mỡ sau khi ly tâm
Chuyển mỡ vào syringe 3ml có khóa
Hình 12.26 cho thấy chuyển mỡ vào những syringe nhỏ hơn.
Ghép mỡ vào vú
Hình 12.27 cho thấy mỡ ghép vào vú.
8.5 Cannula tiêm mỡ
Có thể sử dụng syringe có khóa 1 mL, 3 mL, 5 mL và 10 mL để tiêm mỡ vào vú.
Tôi nghĩ rằng rất khó để thực hiện tiêm mỡ tinh chế khi sử dụng syringe khóa 10 ml, vì syrin-getrong trường hợp này dày và do đó các hạt mỡ dày đặc được tiêm.
Khi sử dụng syringe có khóa 1 ml để tiêm mỡ tinh chế với các hạt mỡ nhỏ có thể được hình thành. Nhược điểm là nó kéo dài thời gian phẫu thuật.
Vì những lý do này, tôi tiêm mỡ bằng ống tiêm khóa 3 ml (Hình 12.28).
8.6 Tiêm mỡ vào vú
Sắp xếp phòng mổ trước khi tiêm mỡ vào vú
Hình 12.29 cho thấy sắp xếp phòng mổ.
Lỗ rạch da
Tiêm mỡ ở lỗ rạch da nằm dưới cùng của vú và nếp gấp của nách trước. Thực hiện tiêm trong hai vùng bằng cách sử dụng ống cannula. Tạo các lỗ vào bằng cách sử dụng dùi awl thay vì rạch da (Hình 12.30 và 12.31). Một lý do khả quan để sử dụng dùi awl là không cần cần thiết phải khâu lại sau khi phẫu thuật. Thông thường, các vết rạch da không nên tạo ra xung quanh quầng vú.
Chích mỡ
Chích mỡ vào nhiều góc khác nhau thông qua 2 lỗ (Hình. 12.32).
Lớp tổ chức ở vú để tiêm mỡ
Vùng tiêm mỡ thường sử dụng là phần dưới của nhu mô vú, nằm phía trên cơ ngực lớn. Tôi cũng tiêm một ít mỡ vào lớp mỡ dưới da của vú, nằm phía trên nhu mô vú.
Nếu có thể, không nên tiêm mỡ vào bên trong nhu mô vú.
Bác sĩ phẫu thuật có thể tiêm mỡ vào vú khi cảm thấy như thể họ đang chạm vào cơ. Khi tiêm mỡ bằng cách giữ vú lên bằng 1 tay, mỡ có thể dễ dàng được tiêm vào lớp thấp nhất của vú (Hình 12.33).
Vú đầy hơn sau khi tiêm mỡ
Hình 12.34,12.35, 12.36, và 12.37 cho thấy bệnh nhân sau khi tiêm mỡ vào vú.
Tạo khuông vú sau khi tiêm ghép mỡ
Điều này là để giảm bớt sự hình thành u mỡ. Tác giả cho rằng việc tạo khuông không có ảnh hưởng xấu đến sự sống sót của các tế bào mỡ ghép.
8.7 Biến chứng của ghép mỡ vú
Nhiều nang
Một biến chứng phổ biến nhất là u nang vú. Một khi đã xảy ra, chúng không dễ dàngbiến mất, nhưng cũng không cần thiết phải điều trị đặc biệt.
U mỡ
Có thể xảy ra ở những vùng tiêm ghép quá nhiều mỡ. Khối u này có thể dễ dàng xảy ra ở phần dưới của vú nơi tiêm ghép mỡ nhiều.
Nếu khối u nhỏ, không cần thiết phải điều trị đặc biệt. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân phàn nàn về việc cảm thấy một khối u lớn hoặc đau, thì khối u cần phải được loại bỏ.
Có thể thực hiện loại bỏ khá dễ dàng. Kiểm tra vùng u mỡ bằng siêu âm. Tiêm dung dịch tumes-cent chính xác vào vùng này. Sau đó, dùng thiết bị siêu âm phân giải mỡ(ULTRA-Z) để phân giải khối u. Trong một số trường hợp, có thể hút vùng này bằng syringe có khóa.
Nếu bệnh nhân muốn loại bỏ một khối mỡ nhỏ, thì nên chuyển đến phòng khám vú để tiến hành cắt bỏ bằng cách sử dụng chọc hút.
Nếu khối u quá lớn để hút bằng ống tiêm, thì phải tiến hành bằng phẫu thuật cắt bỏ u.
Tôi đã xử lí hai trường hợp khối u mỡ bằng cách phân giải mỡ ULTRA-Z và hút ống tiêm có khóa.
Viêm do hoại tử mỡ
Tỷ lệ viêm do hoại tử mỡ là rất hiếm, nếu tiêm một lượng lớn mỡ không đều.
Tụ máu
Tỷ lệ gặp tụ máu là hiếm khi gặp.
Tụ dịch có thể xảy ra, nhưng nó không phổ biến
Tác dụng của việc ghép mỡ ở vú đối với ung thư vú
Vẫn chưa có bằng chứng chính xác. Nghiên cứu liên tục về điều này là bắt buộc sau đây. Sẽ khuyến nghị là bệnh nhân nên chụp nhũ ảnh, siêu âm (USG), chụp cắt lớp vi tính và kiểm tra MRI thường xuyên. Thông thường, bệnh nhân nên kiểm tra USG mỗi năm một lần.
Biến chứng thẩm mỹ
Khi 120ml->200ml mỡ tiêm vào mỗi bên vú, thì vú có thể không đối xứng, theo tỷ lệ mỡ sống sót, và đôi khi bệnh nhân có thể phàn nàn về sự tăng thêm một ít kích thước vú sau khi ghép mỡ.
Do đó, tác giả khuyến cáo nâng vú bằng cách cấy ghép túi sil-icone trước khi ghép mỡ nếu có thể.
Nếu bệnh nhân không muốn đặt túi silicone hoặc hút mỡ, thì vẫn nên ghép mỡ ở vú.
Kỹ thuật ghép mỡ vào vú là rất tốt cho những bệnh nhân có vú không đối xứng.
8.8 Bảo quản mỡ
Tác giả có một hệ thống bảo quản đóng băng cực kỳ thấp và do đó có thể tiến hành ghép mỡ lần thứ hai bằng cách sử dụng mỡ đã đông lạnh. Tuy nhiên, chi phí thêm cho một mảnh ghép thứ hai khi sử dụng mỡ lưu trữ trong tủ đông. Chi phí bổ sung cho việc lưu trữ đóng băng cực thấp như sau:
Cần một gói lưu trữ mỡ 50 mL đắt tiền để đặt vào hộp chứa nitơ lỏng
Chi phí điều trị thuốc làm tan mỡ đông lạnh
Chi phí nitơ lỏng
Nó có giá khoảng 500 đến 1.000 đô la Mỹ Tiền để lưu trữ, đông lạnh và rã đông 300 mL mỡ.Trong trường hợp ghép mỡ vú lần thứ hai bằng tủ đông bình thường, một lượng lớn mỡ cần được lưu trữ và sử dụng so với ghép mỡ ở mặt. Theo kinh nghiệm của tôi thì điều này dường như làm tăng số lượng khối u và u nang, và do đó tôi không giới thiệu một cách ghép mỡ lần thứ hai từ một tủ đông bình thường.
8.9 Xử lý sau khi phẫu thuật
Bệnh nhân không đeo băng ép hoặc mặc quần áo bó. Họ không được mặc áo ngực trong một tháng. Khác với điều này, bệnh nhân cần tránh uống rượu và hút thuốc. Họ nên ăn rau giàu chất chống oxy hóa và tránh ăn thịt.
Bệnh nhân cần tránh xoa bóp bằng máy hoặc điều trị bằng tần số vô tuyến RF.
Dùng buồng oxy áp suất cao là để giúp phục hồi sự mệt mỏi từ phẫu thuật và có thể giúp ích cho tỷ lệ sống sót của tế bào mỡ. Tuy nhiên, không có kết quả nghiên cứu khách quan và kết luận nào cho việc này. Vì một trung tâm điều trị bỏng sử dụng buồng oxy áp suất cao cho mục đích điều trị để tái tạo mô bị bỏng, tôi nghĩ rằng nó cũng có thể hữu ích cho tỷ lệ sống sót của các tế bào ghép mỡ.
Tuy nhiên, bệnh nhân nên lưu ý rằng buồng oxy áp suất cao trong trung tâm điều trị bỏng và tại phòng khám địa phương có các cài đặt áp suất khác nhau.
8.10 Khám sau khi phẫu thuật
Cần phải giải thích rằng cần tiến hành chụp X quang tuyến vú và kiểm tra USG lúc một năm sau khi ghép mỡ ở vú để so sánh và để kiểm tra vú trong tương lai.
8.11 Các trường hợp ghép mỡ vú
Trường hợp 1 (Hình. 12.38 và 12.39)Trường hợp 2 (Hình. 12.40 và 12.41)
9 Ghép mỡ tế bào gốc
Ưu điểm của phương pháp ghép mỡ sử dụng tế bào gốc là tăng tỷ lệ sống sót và giảm khả năng hoại tử, u nang và vón cục mỡ, vì ghép mỡ tế bào gốc tiêm nhiều mỡ mềm hơn so với ghép mỡ thông thường.
Vẫn còn nhiều khó khăn để tiếp cận sử dụng tế bào gốc cho mục đích thẩm mỹ vì nhiều bác sĩ chưa có kinh nghiệm điều trị bằng cách sử dụng tế bào gốc. Do đó, tôi muốn đưa ra các phương pháp điều trị thẩm mỹ bằng cách sử dụng tế bào gốc để cho phép dễ dàng tiếp cận các phương pháp điều trị đó dựa trên nhiều năm kinh nghiệm của tôi.
9.1 Hiểu biết về các tế bào SVF và ADSC
Ghép mỡ tế bào gốc nên được chia thành các mảnh ghép mỡ bằng cách sử dụng mỡ phân đoạn mạch máu(SVF) và ghép mỡ bằng tế bào gốc có nguồn gốc từ mỡ (ADSCs).
Ghép mỡ bằng cách sử dụng tế bào phân đoạn mạch máu SVF liên quan đến việc tiến hành ghép mỡ ngay sau khi tạo tạo ra được tế bào phân lập SVF sau khi chiết xuất mỡ vào ngày điều trị.
Ghép mỡ bằng cách sử dụng ADSC bao gồm tiến hành ghép mỡ sau khi tạo đủ số lượng tế bào gốc trong hơn 2 tuần bằng cách nuôi cấy tế bào SVF đã chiết xuất
Các tế bào phân lập là các khuẩn lạc tế bào được chiết xuất từ các tế bào mỡ (Hình 13.1). Chúng chứa các tế bào gốc trung mô / tế bào gốc, tế bào mỡ tiền thân, tế bào nội mô, tế bào ngoại mạch, tế bào T và đại thực bào M2. Các tế bào SVF tiết ra các yếu tố tăng trưởng khác nhau và cấu trúc nền bên ngoài tế bào ECM như colla-gen và axit hyaluronic để kích hoạt tổng hợp mô mạch máu và thần kinh. Tỷ lệ tế bào gốc trong các tế bào SVF nằm trong khoảng từ 3-> 10%.
Từ 50 mL mỡ, chúng ta có thể tạo ra hàng trăm ngàn tế bào SVF (Bảng 13.1). Nếu chúng ta nuôi cấy các tế bào SVF này, chúng ta có thể thu được 10.000.000 tế bào gốc. Nếu chúng ta nuôi cấy chúng trong 3 tuần, chúng ta có thể thu được 100.000.000 tế bào gốc.
Đạt được 10.000.000 tế bào gốc bằng cách nuôi cấy trong 2 tuần được coi là đủ tế bào gốc để ghép mỡ. 100.000.000 tế bào gốc thu được bằng cách nuôi cấy trong 3 tuần có thể sử dụng như một phương pháp chống lão hóa bằng tiêm tĩnh mạch để điều trị thẩm mỹ nhiều vùng trên cơ thể.
Mô mỡ có thể tạo ra từ hàng trăm đến hàng nghìn lần tế bào gốc so với tủy xương. Mô mỡ có thể sử dụng lượng lớn hơn so với tủy xương và do đó nó có thể tạo ra nhiều tế bào gốc hơn.
Các tế bào gốc có nguồn gốc từ mỡ (ADSCs) được đặt tên lần đầu tiên vào năm 2004 bởi Hiệp hội Công nghệ Ứng dụng Mỡ Quốc tế (IFATS).Các tế bào phân lập (SVF) có thể thực hiện theo các bước sau. Đầu tiên, tiến hành ly tâm mỡ, làm sạch mỡ và sau đó phản ứng với enzyme collagenase. Sau đó, sau khi lọc các tạp chất và làm sạch, thu được các tế bào SVF.
Để nuôi cấy, khi các ADSC nhân lên bằng cách gắn vào một lớp, gắn ADSC vào một vật chứa thủy tinh tích điện âm hoặc hộp Nhựa tích điện vừa phải như poly-styrene và sau đó tiến hành nhân lên trong lò ấp CO2.
Trong một bài báo nuôi cấy, Dulbecco dòng Modified EagleMedium (DMEM) và Albumin huyết thanh bò, là những yếu tố chính, chứa trong các yếu tố tăng trưởng khác.
Trong quá trình nuôi cấy, sau 3-> 4ngày, các tế bào gốc bắt đầu gắn vào môi trường phát triển; sau 10 ngày, hầu hết các tế bào gốc bám vào giấy nuôi cấy và các tế bào khác nổi lên. Sau quá trình này, chỉ bắt đầu nuôi cấy tế bào gốc bằng cách trao đổi môi trường nuôi cấy.
Tác động của ADSC đối với ghép mỡ
Các ADSC, liên quan đến ghép mỡ, làm tăng quá trình tân mạch, mật độ mao mạch và cung cấp mạch ở giai đoạn ban đầu. Người ta cũng biết rằng chính hoạt động của các ADSC như các tế bào mỡ tiền thân và biệt hóa thành các tế bào mỡ để tăng tỷ lệ sống sót trong một thời gian dài.
Vai trò của ADSC khi được sử dụng để ghép mỡ là:
Tham gia vào quá trình tái tạo mô bằng cách biệt hóa thành các tế bào mỡ bằng cách tự sản sinh.
Phân biệt thành tế bào nội mô mạch máu hoặc tế bào thành mạch máu.
Duy trì sự sống sót của các tế bào mỡ bằng cách ngăn ngừa tế bào mỡ tự chết, thực hiện bằng cách thể hiện VEGF và IFG-1, là các yếu tố tăng trưởng tạo mạch máu.
Được biết đến để tăng khả năng sống sót của các tế bào mỡ bằng cách ngăn ngừa xơ hóa và hoại tử mỡ.
Bảng13.1 Các tế bào gốc
Nguồn gốc | Dây rốn | Tủy xương | Mỡ hút | Mỡ cắt |
Thu được | 200~20000CFU/mL | 100~10700CFU/mL | 3600~10700CFU/mL | 28000CFU/g |
Illous and Steroidimas (2011)
Tác giả cho rằng tác dụng lớn nhất của việc ghép mỡ bằng cách sử dụng các tế bào AVF là làm tăng tốc độ tái tạo mỡ bằng cách chuyển tân mạch (Hình 13.2).
Các SVF mới được phân lập và nuôi cấy khác nhau đáng kể về khả năng được kết hợp vào các mô của mạch máu mới. fSVF và cSVF phân lập từ GFP chuột đã được cấy ghép với các mảnh vi mạch có nguồn gốc từ chuột không GFP vào chuột bị suy giảm miễn dịch trong 14 hoặc 28 ngày (Nunes et al. 2013).
9.2 Phương pháp tạo tế bào AVF
9.2.1 Phẫu thuật trong phòng thí nghiệm như là phòng phẫu thuật
Đây là phương pháp tạo ra số lượng tế bào AVF lớn nhất, mặc dù nó cần phải có người được đào tạo tốt và các cơ sở có kinh nghiệm.
9.2.2 Phương pháp sử dụng thiết bị tạo tế bào gốc tự động
Các thiết bị được sản xuất tại Hàn Quốc như CELLDIS và CHA-STATION không cần các nhà nghiên cứu và quá trình này chỉ mất 1 hoặc 2 giờ. Tuy nhiên, phương pháp này tạo ra ít tế bào AVF hơn so với phẫu thuật trong phòng thí nghiệm bằng cách sử dụng phòng phẫu thuật (Hình 13.3).
9.2.3 Bộ Kit tế bào gốc
Điều này có thể thực hiện với giá rẻ mà không cần mua thiết bị và phương tiện. Tuy nhiên, tác giả cho rằng số lượng tế bào AVF tạo bằng phương pháp này là ít nhất.
9.3 Phương pháp tạo các tế bào AVF bằng cách sử dụng một phòng phẫu thuật
Hút mỡ
Chuẩn bị mỡ để chuyển và sử dụng trong việc tạo ra các tế bào gốc (Hình 13.4 và 13.5).
Trước khi ly tâm lượng mỡcấy ghép và số lượng tế bào gốc từ mỡ theo tỷ lệ 2: 1
Rửa mỡ
Tiến hành ly tâm hai lần (Hình 13.7).Chuẩn bị mỡ và dung dịch riêng biệt bằng cách ly tâm (hình 13.8).
Chế biến collagen
Chuẩn bị enzyme collagenase (Hình 13.9).
Trộn enzyme collagenase với mỡ(Hình 13.10)
Phản ứng trong 30 phút lắc trong tủ ấm (Hình 13.11).
Quá trình lọc và rửa
Hình 13.12 và 13.13 cho thấy quá trình lọc và rửa.
Loại bỏ mỡ nổi trên bề mặt (Hình 13.14).
13.4.6 Hoàn thành các tế bào SVF
Các tế bào phân đoạn mạch máu thu được bằng cách ly tâm sau khi trộn nước muối sinh lí (Hình 13.15).
Các tế bào phân đoạn mạch máu được chuyển vào ống syringe 1 mL (Hình 13.16).Hình.13.8 Mỡ sau khi ly tâm
Trộn tế bào SVF với mỡ
Trộn mỡ ly tâm với các tế bào SVF (Hình 13.17)
Mỡ để ghép được trộn với các tế bào SVF (Hình 13.8 và 13.19)
9.4 Kiểm tra tính hiệu lực của các tế bào SVF
Kiểm tra: thái tế bào, thu được, tính hiệu quả
Quá trình kiểm tra được hiển thị trong hình. 13.20 và 13.21.
Kiểm tra hiệu quả của tế bào
Hình 13.22 và 13.23 cho thấy thử nghiệm cho độ khả thi của tế bào.
Các tế bào phân đoạn mạch máu có hình dạng trục chính và kích thước và hình dạng của chúng không cố định, mà làm cho việc phân biệt các tế bào và mảnh vụn trở nên khó khăn. Do đó, việc phân biệt các tế bào và mảnh vụn cần thực hiện bởi các nhà nghiên cứu được đào tạo chuyên nghiệp.
9.5 Bảo quản tế bào gốc
Tủ đông bình thường(Thương hiệu trong nước, thấp nhất Nhiệt độ −27 ° C)
Rất khó để giữ tế bào AVF và tế bào gốc.
Hệ thống bảo quản cấp đông cực thấp: Ngân hàng tế bào di động
Để ngăn ngừa sự phá hủy của màng tế bào bằng cách giảm thiểu sự đóng băng bên trong các tế bào, phải tiến hành làm lạnh từ từ, từ -0.1 đến −2.0°C mỗi phút (Hình 13.24). Nhiệt độ cực thấp hệ thống bảo quản sẽ đóng băng, nơi các tế bào và mô không bị hư hại và có thể bảo quản trong một thời gian dài để sử dụng. Trong hệ thống này, các tế bào được giữ lạnh trong −196 ° C của nitro lỏng nơi quá trình chuyển hóa tế bào bị dừng lại (thấp hơn 130°C).
So sánh hệ thống bảo quản đông lạnh bình thường và hệ thống bảo quản đông lạnh ở nhiệt độ cực thấp
Phòng vô trùng
Để tách các tế bào mà không bị nhiễm bẩn, nên thực hiện quá trình này trong điều kiện vô trùng.
Tác giả tiến hành an toàn tất cả các quá trình phân tách tế bào tại phòng vô trùng được nằm trong phòng thí nghiệm vô trùng (class 100- 10.000.000 zone).
Các trường hợp ghép mỡ
Trường hợp 1 Ghép mỡ tế bào gốc vào vùng mặt (Hình 13.32 và 13.33).
Trường hợp 2 Ghép mỡ tế bào gốc vào vú (Hình 13.34 và 13.35)
Trường hợp 3 Ghép mỡ tế bào gốc chỉ cho vú phải (Hình 13.36 và 13.37).
Vú phải của bệnh nhân nhỏ hơn vú trái.
Lượng mỡ được chiết tách dự kiến sẽ nhỏ. Việc ghép chính (đầu tiên) cho vú phải bằng cách sử dụng tế bào gốc đã được quyết định (Hình 13.36 và 13.37).