1. Trang chủ
  2. Sản - Phụ Khoa
  3. Nội dung chăm sóc sức khỏe sinh sản ở nước ta trong những năm gần đây

Nội dung chăm sóc sức khỏe sinh sản ở nước ta trong những năm gần đây

Nội dung chăm sóc sức khỏe sinh sản ở nước ta trong những năm gần đây

Đại học Huế - Trường ĐH Y Dược

Đồng chủ biên

GS.TS. Nguyễn Vũ Quốc Huy

GS.TS. Cao Ngọc Thành

PGS.TS. Lê Minh Tâm

PGS.TS. Trương Thành Vinh

Cùng nhiều tác giả tham gia biên soạn.

1 ĐẠI CƯƠNG 

Sau gần 50 năm thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước về dân số, kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt là sau 10 năm thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam và Chiến lược quốc gia về Chăm sóc sức khỏe sinh sản; thực hiện cam kết quốc tế về dân số - phát triển và các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản đã đạt những kết quả quan trọng: Mức sinh và tỷ lệ tăng dân số đã giảm mạnh; tình trạng sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ em được cải thiện rõ rệt, góp phần đáng kể vào những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ đổi mới và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. 

Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020 là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, được thực hiện trong mối liên hệ với nhiều chiến lược quốc gia thuộc các lĩnh vực khác, nhằm giải quyết các vấn đề dân số và sức khỏe sinh sản. 

2 ĐỊNH NGHĨA SỨC KHỎE SINH SẢN

2.1 Định nghĩa 

Theo Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển ở Cairo, 1994 (ICPD 1994) “sức khỏe sinh sản là sự thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội, không chỉ đơn thuần là không có bệnh tật hoặc tàn phế của hệ thống sinh sản”. Điều này cũng hàm ý là mọi người đều có quyền được nhận thông tin và tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các biện pháp kế hoạch hóa gia đình an toàn, có hiệu quả và chấp nhận được theo sự lựa chọn của mình, bảo đảm cho người phụ nữ trải qua quá trình thai kỳ và sinh an toàn, tạo cho các cặp vợ chồng cơ may tốt nhất để sinh được đứa con lành mạnh. 

2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản

Sự phát triển kinh tế hay mức thu nhập 

Dịch vụ chăm sóc Y tế 

Sức khỏe phụ nữ và sức khỏe sinh sản

Trình độ học vấn và văn hóa của phụ nữ 

Vị trí của người phụ nữ trong xã hội (tôn giáo, tục lệ...) 

Sơ đồ.1. Các yếu tố ảnh hưởng sức khỏe sinh sản

3 CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN (2011-2020) 

Chiến lược này tập trung cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe  sinh sản  bao gồm cả kế hoạch hóa gia đình, duy trì mức sinh thấp hợp lý, hạn chế xu hướng gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh nhằm góp phần nâng cao chất lượng dân sổ, chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 

3.1 Những thành tựu cơ bản 

Mặc dù không có mức tăng trưởng kinh tế đặc biệt, Việt Nam vẫn có những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực y tế và sức khỏe sinh sản. Sự hỗ trợ mạnh mẽ về chính sách và sự tiếp cận rộng rãi của nhân dân với chăm sóc sức khỏe ban đầu đã góp phần quan trọng vào những kết quả đạt được về y tế và sức khỏe sinh sản. 

Trong những năm qua, đầu tư của nhà nước cho sự nghiệp bảo vệ sức khỏe, nghiên cứu về lĩnh vực dân số-kế hoạch hóa gia đình không ngừng được tăng lên đã tạo điều kiện cho việc củng cố và phát triển mạng lưới cơ sở y tế, kế hoạch hóa gia đình rộng khắp trong cả nước. Các dịch vụ phòng, chữa bệnh cho bà mẹ trẻ em, chăm sóc trước, trong và sau sinh, các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình,... kể cả do nhà nước và tư nhân được mở rộng và chất lượng ngày càng được nâng cao 

3.1.1 Xu thế giảm sinh được duy trì và mục tiêu đạt mức sinh thay thế đã được thực hiện 

Các mục tiêu giảm sinh được đề ra trong Chiến lược Dân số đã đạt sớm hơn dự kiến. Từ năm 1999 đến năm 2009, tổng tỷ suất sinh từ 2,33 giảm xuống còn 2,03 con, tỷ lệ tăng dân số từ 1,5% giảm còn 1,1%. Tỷ lệ tăng dân số đạt mức thấp nhất trong nửa thế kỷ qua. Năm 2005, Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế như mục tiêu Chiến lược Dân số. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009, dân số Việt Nam gần 86 triệu người, đạt mục tiêu chiến lược. Kết quả giảm sinh còn làm thay đổi rõ rệt cơ cấu dân số theo tuổi. Việt Nam bước vào giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”, một điều kiện quan trọng để nền kinh tế có bước tăng trưởng bứt phá. 

Thành tựu nổi bật về giảm sinh tạo tiền đề vững chắc để sớm ổn định quy mô dân số, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. 

3.1.2 Chất lượng dân số được nâng lên 

Với những thành tựu kinh tế, chăm sóc sức khỏe và giáo dục, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng từ 0,690 (năm 2000) lên 0,725 điểm (năm 2009). Nhiều mô hình nâng cao chất lượng dân số được triển khai thử nghiệm và từng bước mở rộng trong cả nước, như sàng lọc trước sinh, sàng lọc sơ sinh nhằm phát hiện, điều trị sớm các tật, bệnh, các rối loạn chuyển hóa di truyền; kiểm tra và tư vấn sức khỏe tiền hôn nhân, can thiệp giảm thiểu tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống ở một số dân tộc ít người. 

3.1.3 Sức khỏe sinh sản được cải thiện 

Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến lược sức khỏe sinh sản đã đạt sớm hơn so với kế hoạch. Tỷ số chết mẹ giảm từ 100 (năm 2000) xuống 75 trên 100.000 trẻ sinh sống (năm 2008). Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi giảm mạnh ở tất cả các vùng bình quân cả nước còn 16%% (2009). Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 18,9% (năm 2009). Tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai tăng lên 79,5% (năm 2008), trong đó tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại tăng từ 61% lên 68,8%; một số biện pháp tránh thai mới được thử nghiệm và đã được triển khai rộng trên toàn quốc. 

3.1.4 Nhận thức, thái độ, hành vi về dân số và sức khỏe sinh sản của các nhóm đối tượng đã có chuyển biến tích cực 

Công tác truyền thông, giáo dục được đổi mới cả về nội dung, hình thức và cách tiếp cận; giáo dục dân số và sức khỏe sinh sản đã được đưa vào chương trình trong và ngoài nhà trường, tạo ra sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành vi của nhân dân. Quy mô gia đình ít con được chấp nhận rộng rãi; hiểu biết và thực hành về kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ trẻ em trong các tầng lớp nhân dân được nâng lên rõ rệt. 

Các hoạt động truyền thông, vận động góp phần thúc đẩy việc xây dựng chính sách, huy động nguồn lực và tạo môi trường xã hội thuận lợi cho công tác dân số và chăm sóc sức khỏe  sinh sản . 

3.1.5 Mạng lưới dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình được củng cố và phát triển 

Mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình được mở rộng từ trung ương đến địa phương. Các tỉnh, thành phố đều có Trung tâm sức khỏe sinh sản, hầu hết các Trung tâm y tế huyện đều có khoa sức khỏe sinh sản. Tại cấp xã, có 98,6% số xã đã có trạm y tế; 65,9% số trạm y tế xã có bác sỹ; 93% có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi; 84,4% thôn, bản có nhân viên y tế hoạt động; 100% thôn, bản, tổ dân phố có cộng tác viên dân số. 

Hầu hết nhân viên y tế cơ sở được đào tạo và có kỹ năng cơ bản về chăm sóc sức khỏe  sinh sản  và kế hoạch hóa gia đình theo chuẩn quốc gia; cán bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số được tập huấn về kiến thức, kỹ năng và thực hiện cung cấp các dịch vụ tư vấn, biện pháp tránh thai phi lâm sàng tại cộng đồng. 

3.1.6 Các giải pháp khác đã được thực hiện và đạt kết quả tốt 

  • Nhiều văn bản chính sách, hướng dẫn chuyên môn về dân số và sức khỏe sinh sản được ban hành tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý nhà nước, tổ chức thực hiện công tác dân số và sức khỏe sinh sản có hiệu quả trên cả nước. 

Hình 1: Các dịch vụ thăm khám tư vấn sức khỏe sinh sản
  • Kinh phí đầu tư cho các chương trình dân số và sức khỏe sinh sản được nâng lên, cơ chế quản lý theo chương trình mục tiêu tiếp tục được thực hiện. Từ năm 2008, chăm sóc sức khỏe  sinh sản  trở thành một dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia về phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS

  • Việc xã hội hóa công tác dân số và sức khỏe sinh sản đã được chú trọng và có chuyển biến tích cực. Mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản tư nhân được mở rộng, đáp ứng nhu cầu dân số ngày càng tăng của xã hội. 

  • Đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ thuật cung cấp dịch vụ dân số và sức khỏe sinh sản được quan tâm thực hiện. Cán bộ quản lý từ trung ương đến cơ sở đã được đào tạo, tập huấn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. 

  • Hệ thông tin quản lý chuyên ngành về dân số-kế hoạch hóa gia đình được cải tiến, từng bước được tin học hóa và hình thành kho dữ liệu điện tử dân số ở tuyến huyện và 63 tỉnh, thành phố, bước đầu phục vụ yêu cầu quản lý, điều hành chương trình, xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở cấp cơ sở. Hệ thống báo cáo, thông tin, số liệu về sức khỏe sinh sản các cấp được cập nhật, cung cấp số liệu ngày càng đầy đủ hơn. 

Những kết quả nói trên đã dẫn tới sự cải thiện cơ bản tình trạng dân số và sức khỏe sinh sản nước ta hiện nay: Quy mô dân số tăng chậm lại; tỷ lệ phụ thuộc giảm nhanh và đạt được “cơ cấu dân số vàng”; chất lượng dân số, tình trạng sức khỏe sinh sản được cải thiện. Điều này đã, đang và sẽ tác động toàn diện và tích cực đối với sự phát triển bền vững của đất nước. 

3.2 Những tồn tại 

3.2.1 Nhiều địa phương chưa đạt mức sinh thay thế 

Mặc dù trong 10 năm qua, nhiều địa phương thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn đã đạt tốc độ giảm sinh rất nhanh, nhưng do xuất phát điểm mức sinh cao nên năm 2009 vẫn còn 28/63 tỉnh, thành phố thuộc các vùng Trung du và Miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên chưa đạt mức sinh thay thế. 

3.2.2 Chất lượng dân số chậm 

Mặc dù chỉ số phát triển con người tăng lên, nhưng chưa làm thay đổi vị trí trong danh sách các nước được xếp hạng về chỉ số này. Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nước có chỉ số phát triển con người ở mức trung bình. Số năm trung bình sống khỏe mạnh chỉ đạt 66 tuổi và xếp thứ 116/182 nước (năm 2009). Tỷ lệ dân số đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật còn rất thấp. 

3.2.3 Nhiều vấn đề về kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản chưa được giải quyết tốt 

Chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình còn hạn chế, việc điều phối cung ứng phương tiện tránh thai chưa linh hoạt, chưa chủ động được nguồn cung cấp, dẫn đến thiếu và thừa cục bộ ở một số nơi. 

Mặc dù có sự cải thiện đáng kể nhưng vẫn còn sự cách biệt lớn giữa các vùng về nhiều chỉ báo sức khỏe sinh sản như tử vong mẹ, tử vong trẻ em và suy dinh dưỡng. Tử vong sơ sinh vẫn còn khá cao, chiếm 70% tử vong trẻ dưới 1 tuổi và 50% tử vong trẻ em dưới 5 tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt thể thấp còi vẫn còn cao. 

Tình trạng phá thai còn nhiều, vẫn còn nhiều trường hợp phá thai nhiều lần. 

Việc đáp ứng nhu cầu thông tin, kiến thức, dịch vụ về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho các nhóm vị thành niên, thanh niên, nam giới, người di cư, người khuyết tật, người có HTV; dự phòng và điều trị các bệnh viêm nhiễm đường sinh sản/bệnh lây truyền qua đường tình dục, vô sinh đã được đề cập nhưng việc can thiệp còn hạn chế. Bạo lực gia đình, bạo hành giới trong sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục vẫn còn là vấn đề bức xúc. 

Sàng lọc phát hiện ung thư vúung thư cổ tử cung chưa được thực hiện rộng rãi. Sự phối hợp giữa hệ thống phòng chống ung thư và chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em chưa thật tốt. 

Ở một số địa phương, cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp dịch vụ theo phân tuyến kỹ thuật. Chất lượng một số dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt là dịch vụ phá thai tại các cơ sở y tế tư nhân còn yếu. 

3.2.4 Nội dung, hình thức truyền thông chưa thật phù hợp với đặc điểm đối tượng 

Nội dung và hình thức truyền thông chưa theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội và chưa thật phù hợp với đặc điểm vùng, miền; truyền thông cho các nhóm đối tượng đặc thủ còn chưa được quan tâm đúng mức sản phẩm truyền thông chưa đáp ứng được cả về số lượng, chất lượng, còn thiếu các sản phẩm dành cho đồng bào dân tộc; nội dung truyền thông thiếu toàn diện, việc sản xuất và phân phối các sản phẩm, tài liệu truyền thông chưa kịp thời. 

Phối hợp giữa truyền thông và cung cấp dịch vụ dân số và sức khỏe sinh sản vẫn còn những điểm yếu kém. 

3.2.5 Thông tin, số liệu và nghiên cứu khoa học về dân số và sức khỏe sinh sản chưa đáp ứng nhu cầu quản lý, xây dựng kế hoạch và chính sách 

Việc xây dựng công cụ đăng ký dân số và hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư dùng chung chưa được triển khai. 

Thông tin, số liệu về dân số và sức khỏe sinh sản còn thiếu chính xác, chưa đầy đủ, kịp thời, giữa các nguồn số liệu còn sự khác biệt lớn. Công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo các vấn đề dân số và sức khỏe sinh sản còn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, điều hành. 

Việc lồng ghép các biến dân số vào công tác kế hoạch hóa phát triển chưa trở thành quy trình bắt buộc trong công tác kế hoạch hóa và hoạch định chính sách của các ngành, các địa phương. 

3.3 Những thách thức 

3.3.1 Cấp uỷ đảng và chính quyền một số nơi chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược của công tác dân số và chăm sóc sức khỏe sinh sản

Một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân số và chăm sóc sức khỏe  sinh sản  đối với sự phát triển bền vững của đất nước nên buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, giao khoán cho cơ quan chuyên môn; chưa tạo được sự phối hợp hoạt động đồng bộ giữa các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức. 

3.3.2 Tổ chức bộ máy chưa hoàn thiện, thiếu ổn định 

Trong 10 năm, bộ máy làm công tác dân số đã hai lần thay đổi, tổ chức cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe  sinh sản , kế hoạch hóa gia đình. Sự thay đổi tổ chức bộ máy đã tác động không nhỏ đến việc tổ chức thực hiện; tình trạng thiếu cán bộ, nhất là cán bộ được đào tạo, có kinh nghiệm làm công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình còn tương đối phổ biến; chế độ đãi ngộ cán bộ chưa phù hợp. 

3.3.3 Đầu tư nguồn lực chưa đáp ứng yêu cầu 

Đầu tư nguồn lực của Nhà nước cho công tác dân số và sức khỏe sinh sản chưa đáp ứng nhu cầu mở rộng nội dung và nâng cao chất lượng dịch vụ. Cơ chế phân bổ và quản lý kinh phí chưa phù hợp, nhất là trong điều kiện có chênh lệch về mức độ phát triển giữa các vùng, miền 

3.3.4 Quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập 

Trong quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện còn có tư tưởng chủ quan, chưa quyết liệt thực hiện một số mục tiêu và giải pháp đã đề ra; thiếu nhạy bén với những vấn đề mới nảy sinh; lúng túng, chậm thích ứng với sự thay đổi. Việc xây dựng kế hoạch, giao chỉ tiêu và phân bổ kinh phí chưa tính toán đầy đủ đến sự khác biệt giữa vùng, miền, địa phương. Việc nghiên cứu, đánh giá và dự báo tình hình chưa sát; công tác giám sát, đánh giá chưa hiệu quả. 

3.4 Các nội dung chính của chăm sóc sức khỏe sinh sản

  1. Kế hoạch hóa gia đình 

  2. Làm mẹ an toàn 

  3. Thông tin - giáo dục truyền thông và tư vấn 

  4. Nạo hút thai an toàn 

  5. Phòng và điều trị vô sinh 

  6. Phòng và đưa các bệnh lây truyền theo đường tình dục nhiễm khuẩn đường sinh sản 

  7. Sức khỏe sinh sản vị thành niên 

  8. Đề phòng và phát hiện sớm các ung thư sinh dục 

  9. Sức khỏe phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh 

3.5 Các biện pháp chăm sóc sức khỏe sinh sản

3.5.1 Kế hoạch hóa gia đình 

Thực hiện đa dạng hóa các biện pháp tránh thai, cung cấp rộng rãi các biện pháp tránh thai mới đồng thời cung ứng đầy đủ bao Cao Su và các biện pháp để kết hợp phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục, kể cả HIV/AIDs. 

3.5.2 Bảo đảm cung cấp các dịch vụ chăm sóc các bà mẹ trước, trong và sau sinh, chăm sóc sơ sinh và trẻ em 

Phát triển các dịch vụ chăm sóc trước khi sinh, giảm bớt tỷ lệ các bà mẹ không được khám thai trước khi sinh, tăng tỷ lệ thai phụ được thăm thai đủ 3 lần có chất lượng. Tăng tỷ lệ sinh con được cán bộ chuyên môn giúp đỡ. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và cán bộ chuyên môn có đủ trình độ cho các khoa sản và ngoại sản của các bệnh viện tuyến huyện, để có thể thực hiện được các thủ thuật chăm sóc sản khoa thiết yếu và cấp cứu sản khoa nhằm giảm tử vong mẹ. Đẩy mạnh chăm sóc sau sinh để giúp đỡ các bà mẹ giữ gìn sức khỏe, phòng chống các bệnh tật, biến chứng sau sinh và hướng dẫn cách chăm sóc và nuôi con, nuôi con bằng sữa mẹ, tư vấn cho các bà mẹ về kế hoạch hóa gia đình. Có chế độ ghi chép, theo dõi các hoạt động chăm sóc sau sinh và có tổng kết đánh giá những tiến bộ sau này. 

3.5.3 Nạo phá thai an toàn, xử lý tốt các biến chứng và chăm sóc sau nạo phá thai 

Có đủ cán bộ chuyên môn vững tay nghề và các điều kiện vật chất trang thiết bị thuốc men cần thiết để thực hiện nạo phá thai an toàn, điều trị tốt các tai biến do nạo phá thai và thực hiện tốt các chăm sóc và tư vấn sau nạo phá thai. 

3.5.4 Dự phòng và điều trị các nhiễm khuẩn đường sinh sản, các bệnh lây truyền đường tình dục HIV/AIDs.

Mọi cơ sở y tế và một số cơ sở dịch vụ kế hoạch hóa gia đình có điều kiện về cơ sở vật chất và cán bộ căn được cung cấp các trang thiết bị, thuốc men để chẩn đoán, điều trị các bệnh thông thường về nhiễm khuẩn đường sinh sản và lây truyền đường tình dục. 

Hình 2: Thực trạng sử dụng các biện pháp tránh thai và nạo phá thai ở nước ta (2017)

3.5.5 Phát hiện và điều trị sớm các ung thư đường sinh sản 00

Tổ chức rộng rãi việc thăm khám hàng loạt phát hiện bệnh ung thư, đặc biệt là ở phụ nữ bằng các xét nghiệm hoặc nghiệm pháp đơn giản, tổ chức khám phát hiện ung thư định kỳ. Bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe  sinh sản  người cao tuổi và chẩn đoán, điều trị, chăm sóc các bệnh nhân ung thư ở các bệnh viện theo quy định được phân cấp. 

3.5.6 Dự phòng và điều trị vô sinh 

Phát hiện và điều trị sớm các bệnh liên quan đến vô sinh bằng cách kiện toàn và nâng cao chất lượng các kỹ thuật chẩn đoán và điều trị vô sinh ở các tuyến đồng thời nghiên cứu để ban hành các văn bản pháp quy về cho và nhận tế bào noãn, tinh trùng và những vấn đề khác có liên quan đến việc có con nhờ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. 

3.5.7 Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên 

Đối với vị thành niên: 

Nguyên lý hành động là cung cấp thông tin cho các thiếu niên hiểu rõ về giới tính, đề phòng có thai ngoài ý muốn, đề phòng các bệnh lây truyền theo tình dục có nguy cơ dẫn đến vô sinh. Giáo dục cho vị thành niên rõ cần tôn trọng sự tự quyết của phụ nữ và chia sẻ với họ trách nhiệm trong những vấn đề về tình dục và sinh sản. Sinh sớm không những có nguy cơ làm tăng nhanh dân số và còn làm tăng nguy cơ tử vong mẹ, tăng tỷ mắc bệnh và tử vong của trẻ. Lấy chồng sớm và sinh sớm làm giảm khả năng học tập và lao động của các phụ nữ trẻ, làm giảm chất lượng cuộc sống của họ và con cái họ. 

  • Tình yêu và luyến ái lành mạnh. 

  • Phổ biến kiến thức về vệ sinh kinh nguyệt và vệ sinh bộ phận sinh dục. 

Mục tiêu là giải quyết những vấn đề về sức khỏe tình dục và sinh sản của thiếu niên, chủ yếu là tránh có thai ngoài ý muốn và phá thai trong những điều kiện kém an toàn, tránh những bệnh lây truyền theo đường tình dục và nhiễm HIV, làm giảm hẳn tỷ lệ có thai ở tuổi thiếu niên. 

Biện pháp gồm hướng dẫn vị thành niên xử sự đúng đắn về giới tính và sinh sản. Cha mẹ và những người có trách nhiệm có quyền, có nghĩa vụ và trách nhiệm cung cấp thông tin về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho vị thành niên. 

Hình 3: Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản ngay từ trong học đường

Giới tính và các mối liên quan giữa hai giới: 

  • Giới tính và mối liên quan giữa hai giới là một khối thống nhất, ảnh hưởng đến khả năng tạo cho nam giới và nữ giới có một cuộc sống lành mạnh, làm chủ được vận mệnh của mình về phương diện sinh sản. Quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực tình dục và sinh sản trong đó có sự tôn trọng đầy đủ và toàn diện về cơ thể con người, ý thức trách nhiệm bình đẳng và quan tâm lẫn nhau tạo điều kiện cho những quan hệ hài hòa giữa nam và nữ trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. 

  • Bạo lực đối với phụ nữ và sự cưỡng dâm ngày càng phổ biến khiến AIDs số và các bệnh lây truyền theo tình dục ngày càng đe dọa và chà đạp lên những quyền cơ bản của phụ nữ và gây ra nguy cơ chủ yếu và thường xuyên cho sức khỏe của họ. 

  • Mục tiêu nhằm khuyến khích đẩy mạnh những thông tin, giáo dục và dịch vụ để phát triển những quan hệ bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau giữa hai giới để cải thiện chất lượng cuộc sống con người. 

  • Biện pháp gồm những hoạt động giáo dục trong gia đình, trong cộng đồng, trong trường học, ngoài trường học theo từng lứa tuổi, kể cả người lớn đặc biệt đối với nam giới. cấm sản xuất và buôn bán các văn hóa phẩm khiêu dâm đồi trụy đối với trẻ em. 

  • Nội dung gồm những vấn đề cấp thiết như tránh những thai kỳ không mong muốn, ngăn chặn lan truyền bệnh AIDs số, bệnh lây truyền theo đường tình dục và những hành động hung bạo đối với phụ nữ trong đó có cả cưỡng dâm, bóc lột và cưỡng ép mại dâm. 

3.5.8 Phát hiện sớm các khối u phụ khoa 

Thường xuyên khám vú, tự khám vú để phát hiện sớm các khối u và điều trị sớm khi mới xuất hiện. 

Sáu tháng một lần nên làm phiến đồ âm đạo - cổ tử cung để phát hiện những tế bào bất thường, hoặc soi cổ tử cung nếu thấy có tổn thương và điều trị sớm những tổn thương ở cổ tử cung. 

3.5.9 Rối loạn tiền mãn kinh và mãn kinh 

Tư vấn và chăm sóc cho phụ nữ lớn tuổi khi có các dấu hiệu sau: 

  • Những dấu hiệu bất thường có thể có trong giai đoạn tiền mãn kinh: rong kinh, kinh mau, kinh thưa 

  • Những dấu hiệu bất thường có thể gặp trong thời kỳ mãn kinh: bốc hỏa, hồi hộp, đánh trống ngực, lạnh đầu chỉ. 

  • Những nguy cơ có thể gặp trong thời kỳ mãn kinh: loãng xương dẫn đến gãy xương 

4 NHỮNG VẤN ĐỀ DÂN SỐ VÀ SỨC KHỎE SINH SẢN ĐẶT RA TRONG 10 NĂM TỚI 

4.1 Chất lượng dân số 

Chất lượng dân số còn hạn chế, Chỉ số phát triển con người của nước ta tuy từng bước cải thiện, nhưng vẫn ở mức thấp. Sức khỏe và thể lực của người Việt Nam còn kém so với nhiều nước trong khu vực, đặc biệt là chiều cao, cân nặng và sức bền. 

Tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi ở một số khu vực còn cao, như Tây Bắc, Bắc Trung bộ và Tây Nguyên. Cơ cấu bệnh tật đang có xu hướng chuyển dần từ các bệnh nhiễm khuẩn là chủ yếu sang các bệnh rối loạn chuyển hóa, di truyền và hậu quả của tai nạn thương tích. Tình trạng trẻ em thừa cân, tự kỷ, tiểu đường có xu hướng gia tăng. 

Một số bệnh như sốt rét, bướu cổ, phong,... vẫn chiếm tỷ lệ cao ở khu vực có đồng bào dân tộc ít người sinh sống. Một số dân tộc có nguy cơ suy thoái do tảo hôn, kết hôn cận huyết thống. Kiến thức và kỹ năng chăm sóc bà mẹ trẻ em còn nhiều hạn chế dẫn đến tỷ lệ vô sinh, tỷ lệ chết ở trẻ em còn cao. Mức độ hưởng thụ các dịch vụ y tế, dân số và sức khỏe sinh sản, dịch vụ xã hội cơ bản còn thấp. 

Lạm dụng và sử dụng chất gây nghiện như thuốc lá, rượu bia, ma túy, vi phạm pháp luật ngày càng trở nên nghiêm trọng đối với giới trẻ. 

4.2 Sức khỏe sinh sản

Tình trạng sức khỏe bà mẹ còn nhiều thách thức: Tai biến sản khoa và tử vong mẹ tuy đã giảm nhưng vẫn còn có sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng, miền. Tỷ lệ thăm khám bà mẹ và trẻ sơ sinh sau sinh còn thấp. 

Cung ứng phương tiện tránh thai gặp khó khăn: Trong những năm tới, số phụ nữ bước vào độ tuổi sinh sản vẫn tiếp tục tăng, nhu cầu sử dụng các biện pháp tránh thai, đặc biệt là các biện pháp tránh thai hiện đại sẽ tiếp tục tăng. Hầu hết phương tiện tránh thai phải nhập khẩu, trong khi nguồn quốc tế viện trợ phương tiện tránh thai không còn. Vì vậy, việc đảm bảo phương tiện tránh thai trong giai đoạn tới là một thách thức lớn. 

Tình trạng phá thai và vô sinh còn nhiều: Tỷ lệ phá thai, bao gồm cả phá thai ở thanh niên, vị thành niên còn cao. Tỷ lệ vô sinh, nhất là vô sinh thứ phát còn khá cao, nhưng khả năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ cho người vô sinh còn hạn chế. 

Tình trạng nhiễm khuẩn đường sinh sản khá phổ biến, bệnh lây truyền qua đường tình dục - HIV và ung thư đường sinh sản còn cao: Việc sàng lọc và phát hiện sớm ung thư đường sinh sản chưa được triển khai rộng rãi. Sự kết nối giữa hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe  sinh sản  và phòng chống HIV còn hạn chế. 

4.3 Cơ cấu dân số 

Dân số trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi) tăng nhanh. Điều này là cơ hội cho phát triển song cũng tạo ra những thách thức lớn về giáo dục, đào tạo nghề, tạo việc làm cho hàng chục triệu người lao động, đặc biệt là thanh niên. 

Di cư diễn ra với cường độ ngày càng mạnh, đòi hỏi phải tăng cường quản lý dân số, đổi mới phương thức quản lý và đáp ứng nhu cầu dịch vụ xã hội cơ bản cho người di cư. 

Tỷ số giới tính khi sinh tăng nhanh và liên tục. 

Dân số Việt Nam đang trong quá trình già hóa, số lượng người cao tuổi ngày càng tăng, đòi hỏi phải có các loại hình chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi phù hợp ngày càng bức thiết. 

4.4 Quy mô, mật độ dân số và mức sinh 

Năm 2009, nước ta có 85,8 triệu người, mật độ 259 người/km2 thuộc những nước có quy mô dân số lớn và mật độ dân số rất cao. 

Mặc dù đã đạt được mức sinh thay thế nhưng dân số nước ta vẫn đang trong giai đoạn nhạy cảm với các yếu tố tác động, chưa loại trừ được khả năng mức sinh tăng trở lại. Để ổn định quy mô dân số ở mức phù hợp, có được cơ để cấu dân số hợp lý, kéo dài thời gian “cơ cấu dân số vàng” phải duy trì mức sinh thấp, hợp lý và cần có chính sách linh hoạt, thích hợp với những diễn biến của mức sinh. 4.5. Năng lực kế hoạch hóa, lồng ghép biến dân số 

Việc lồng ghép các biến dân số vào kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội là yêu cầu khách quan. Tuy nhiên, việc lồng ghép biến dân số của các bộ, ngành, địa phương vào kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội chưa thực sự tốt và chưa được quan tâm đúng mức. Điều này dẫn đến tình trạng vừa lãng phí vừa thiếu hụt trong đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội. 

5 QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU 

Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020 sẽ tập trung giải quyết những vấn đề sau đây: 

  • Nâng cao chất lượng dân số giai đoạn đầu đời, tạo cơ sở nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần. 

  • Duy trì mức sinh thấp, hợp lý để sớm ổn định quy mô dân số đồng thời chủ động ngăn ngừa nguy cơ suy thoái ở một số dân tộc ít người; giải quyết tốt một số vấn đề cấp bách về cơ cấu dân số, 

  • Cải thiện sức khỏe bà mẹ trẻ em, sức khỏe sinh sản, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số và các nhóm dân số đặc thù. 

5.1 Quan điểm 

1. Công tác dân số và chăm sóc sức khỏe  sinh sản  là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những yếu tố hàng đầu để nâng cao chất lượng và phát huy thế mạnh về nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.  

2. Giải quyết đồng bộ các vấn đề dân số và sức khỏe sinh sản, tập trung nâng cao chất lượng dân số, cải thiện sức khỏe bà mẹ trẻ em, hỗ trợ phát huy lợi thế của “cơ cấu dân số vàng”, chủ động điều chỉnh tốc độ gia tăng dân số và có chính sách phù hợp với những thay đổi về cơ cấu, phân bố dân số. 

3. Giải pháp cơ bản để thực hiện công tác dân số và chăm sóc sức khỏe  sinh sản  là vận động giáo dục, truyền thông chuyển đổi hành vi gắn với cung cấp dịch vụ theo hướng dự phòng tích cực, đảm bảo công bằng, bình đẳng giới và quyền của người dân trong việc tiếp cận thông tin và lựa chọn dịch vụ có chất lượng, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hóa và tập quán của người dân ở các vùng miền khác nhau. 

4. Đầu tư cho công tác dân số và chăm sóc sức khỏe  sinh sản  là đầu tư cho phát triển bền vững mang lại hiệu quả trực tiếp rất cao về kinh tế, xã hội và môi trường. Đa dạng hóa các nguồn đầu tư, trong đó nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Tập trung nguồn lực và chỉ đạo thực hiện các mục tiêu dân số và sức khỏe sinh sản ở địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng ven biển và hải đảo. 

5. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về công tác dân số và chăm sóc sức khỏe  sinh sản ; huy động sự tham gia của toàn xã hội; kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy làm công tác dân số và chăm sóc sức khỏe  sinh sản, bảo đảm tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác này. 

5.2 Mục tiêu 

5.2.1 Mục tiêu tổng quát 

Nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, duy trì mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân. 

5.2.2 Mục tiêu cụ thể 

  1. Nâng cao sức khỏe, giảm bệnh, tật và tử vong ở trẻ em. Phấn đấu vào năm 2020 giảm tỷ lệ chết sơ sinh xuống còn dưới 7%%, tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi dưới 12%%, tỷ lệ chết trẻ em dưới 5 tuổi dưới 18%%. 

  2. Nâng cao sức khỏe bà mẹ, vào năm 2020 giảm 30% tỷ số tử vong mẹ so với năm 2010, thu hẹp đáng kể sự khác biệt về các chỉ báo sức khỏe bà mẹ giữa các vùng miền. 

  3. Khống chế tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh để tỷ số này vào năm 2020 không vượt quá 115, đặc biệt tập trung vào các địa phương có tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trầm trọng, tiến tới đưa tỷ số này trở lại mức bình thường. 

  4. Đáp ứng đầy đủ nhu cầu kế hoạch hóa gia đình của nhân dân, duy trì mức sinh thấp hợp lý để số con trung bình của một cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản (tổng tỷ suất sinh) ở mức 1,8; quy mô dân số không quá 98 triệu người vào năm 2020. Tăng khả năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ sinh sản có chất lượng, vào năm 2020 phấn đấu giảm 50% trường hợp vô sinh thứ phát so với năm 2010. 

  5. Giảm mạnh phá thai, đưa tỷ số phá thai xuống dưới 25/100 trẻ sinh sống vào năm 2020; cơ bản loại trừ phá thai không an toàn. 

  6. Vào năm 2020, giảm 30% tỷ lệ nhiễm khuẩn đường sinh sản, giảm 20% tỷ lệ nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục so với năm 2010. Chủ động phòng ngừa, phát hiện và điều trị sớm ung thư đường sinh sản, ít nhất 50% số người trong nhóm từ 30 đến 54 tuổi được sàng lọc ung thư cổ tử cung và 50% số phụ nữ trên 40 tuổi được sàng lọc ung thư vú vào năm 2020. 

  7. Cải thiện sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên, để vào năm 2020 tỷ lệ có thai ở vị thành niên và tỷ lệ phá thai ở vị thành niên đều giảm 50% so với năm 2010 và có ít nhất 75% số điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản có dịch vụ thân thiện cho vị thành niên và thanh niên. 

  8. Cải thiện sức khỏe sinh sản cho các nhóm dân số đặc thù, chú trọng người di cư, người khuyết tật, người có HIV, một số dân tộc có nguy cơ suy thoái. Đáp ứng kịp thời nhu cầu chăm sóc sức khỏe  sinh sản  cho người bị bạo hành giới và trong trường hợp thảm họa thiên tại. 

  9. Tăng cường chăm sóc sức khỏe người cao tuổi để ít nhất 50% so người cao tuổi được tiếp nhận dịch vụ chăm sóc sức khỏe dựa vào cộng đồng vào năm 2020. 

  10. Tăng cường lồng ghép các biển dân số vào hoạch định chính sách và lập kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội; cải thiện hệ thống tin quản lý về dân số, sức khỏe sinh sản đáp ứng yêu cầu xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của các cấp, các ngành. 

6 CÁC GIẢI PHÁP 

Thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó lãnh đạo, tổ chức và quản lý là giải pháp tiên quyết. Truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi và cung cấp dịch vụ dân số và sức khỏe sinh sản là giải pháp cơ bản. Các giải pháp điều kiện bao gồm: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về dân số và sức khỏe sinh sản; xã hội hóa, phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế tài chính, hậu cần; đào tạo, nghiên cứu khoa học và thông tin tư liệu. 

6.1 Lãnh đạo, tổ chức và quản lý 

  • Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác dân số và sức khỏe sinh sản; kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy đảm bảo quản lý và thực hiện có hiệu quả công tác này. 

  • Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền. 

  • Hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác dân số và sức khỏe sinh sản các cấp. 

  • Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý công tác dân số và sức khỏe sinh sản. 

6.2 Truyền thông, giáo dục chuyển đổi hành vi 

Triển khai mạnh, có hiệu quả các hoạt động truyền thống, giáo dục với nội dung, hình thức và cách tiếp cận phù hợp với từng vùng, từng nhóm đối tượng chú trọng khu vực khó khăn, đối tượng khó tiếp cận; mở rộng giáo dục về dân số và sức khỏe sinh sản, phòng ngừa HIV, giới và bình đẳng giới, sức khỏe tình dục trong và ngoài nhà trường. Tăng cường sự tham gia của đối tượng và cộng đồng trong việc lập kế hoạch, thực hiện, giám sát và phản hồi về các hoạt động giáo dục và truyền thông. 

  • Nâng cao hiệu quả thông tin cho lãnh đạo các cấp. 

  • Tăng cường và nâng cao hiệu quả các hoạt động truyền thông. 

  • Tăng cường giáo dục dân số và sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, giới và bình đẳng giới trong và ngoài nhà trường. 

  • Đổi mới và nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục. 

6.3 Dịch vụ dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản

Nâng cao chất lượng dịch vụ dân số và chăm sóc sức khỏe  sinh sản ; tổ chức cung cấp các dịch vụ sàng lọc bệnh, tật trước sinh và sơ sinh; tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình, đặc biệt là các gói dịch vụ thiết yếu, đảm bảo quyền sinh sản và đáp ứng nguyện vọng của mọi đối tượng, tiến tới xóa bỏ cách biệt giữa các vùng, miền, các nhóm dân cư 

  • Kiện toàn mạng lưới cung cấp dịch vụ dân số và chăm sóc sức khỏe sinh sản . 

  • Nâng cao chất lượng dịch vụ. 

  • Hoàn thiện hệ thống hậu cần phương tiện tránh thai và hàng hóa sức khỏe sinh sản. 

  • Mở rộng cung cấp các dịch vụ tư vấn và kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân, sàng lọc trước sinh và sơ sinh. 

6.4 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách dân số và sức khỏe sinh sản

Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và các công cụ quản lý khác nhằm bảo đảm hành lang pháp lý và môi trường xã hội thuận lợi để thực hiện tốt công tác dân số và sức khỏe sinh sản. 

Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến dân số và sức khỏe sinh sản.

Xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chính sách trong lĩnh vực dân số và sức khỏe sinh sản thích ứng với những thay đổi về quy mô, cơ cấu dân số, phân bố dân cư, nâng cao chất lượng dân số. 

6.5 Xã hội hóa, phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế 

Huy động sự tham gia của cộng đồng, cá nhân, tổ chức phi chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp, đồng thời khuyến khích sự tham gia của tư nhân, các tổ chức trong và ngoài nước vào cung cấp dịch vụ dân số và sức khỏe sinh sản tăng cường phối hợp liên ngành và mở rộng hợp tác quốc tế nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của chiến lược. 

Xã hội hóa trong thực hiện công tác dân số và sức khỏe sinh sản. 

Tăng cường phối hợp liên ngành, đề cao trách nhiệm tham gia của từng ngành, lĩnh vực trong thực hiện công tác dân số và sức khỏe sinh sản từ trung ương tới cơ sở, đặc biệt là giữa các ngành, lĩnh vực có liên quan mật thiết đến các mục tiêu và giải pháp. 

Hợp tác quốc tế: Chủ động tham gia các hoạt động quốc tế về dân số và sức khỏe sinh sản của khu vực và thế giới, nhằm trao đổi, học tập kinh nghiệm và thành tựu đạt được trong lĩnh vực dân số và sức khỏe sinh sản. 

Mở rộng phạm vi và đa dạng hóa các hình thức hợp tác với các tổ chức quốc tế, khu vực, chính phủ các nước và các tổ chức phi chính phủ. 

6.6 Tài chính 

Đa dạng hóa các nguồn lực tài chính và từng bước tăng mức đầu tư cho công tác dân số và sức khỏe sinh sản. Quản lý và điều phối có hiệu quả nguồn lực tài chính của Nhà nước, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng của mọi người dân trong tiếp cận và lựa chọn dịch vụ dân số và sức khỏe sinh sản có chất lượng. 

Đa dạng hóa nguồn lực tài chính đầu tư cho công tác dân số và sức khỏe sinh sản và từng bước tăng mức đầu tư. 

Quản lý và điều phối nguồn lực tài chính. 

6.7 Đào tạo, nghiên cứu khoa học và thông tin số liệu 

Chú trọng đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ dân số và sức khỏe sinh sản theo hướng chuyên nghiệp hóa; nâng cao năng lực và tổ chức thực hiện các nghiên cứu khoa học về dân số và sức khỏe sinh sản; kiện toàn và đẩy mạnh tin học hóa hệ thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu chuyên ngành dân số và sức khỏe sinh sản. Tăng cường năng lực giám sát, đánh giá, phân tích và dự báo. 

Đào tạo và tập huấn: Trên cơ sở quy hoạch hệ thống tổ chức, cán bộ và chức năng, nhiệm vụ của các cấp, phân tuyến kỹ thuật, xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo, tập huấn thích hợp nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực thực hiện công tác dân số và sức khỏe sinh sản. 

Nâng cao năng lực và tổ chức thực hiện các nghiên cứu khoa học. 

Kiện toàn và đẩy mạnh tin học hóa hệ thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu chuyên ngành dân số – sức khỏe sinh sản. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ báo đánh giá, đặc biệt là các chỉ báo đánh giá chất lượng để xử lý và cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời những thông tin cần thiết, phục vụ cho việc chỉ đạo, điều hành các hoạt động dân số và sức khỏe sinh sản; nghiên cứu, xây dựng các mô hình phân tích và dự báo các vấn đề về dân số và sức khỏe sinh sản. 

7 TỔ CHỨC THỰC HIỆN 

7.1 Các giai đoạn thực hiện chiến lược 

7.1.1 Giai đoạn 1 (2011-2015) 

Kiên trì thực hiện gia đình ít con khỏe mạnh, chủ động điều chỉnh mức sinh phù hợp với từng vùng, miền nhằm duy trì tổng tỷ suất sinh bình quân trong toàn quốc ở mức 1,9 con vào năm 2015. 

Nâng cao chất lượng dân số, tập trung triển khai các loại hình dịch vụ tư vấn và kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân; sàng lọc trước sinh, sơ sinh. Thí điểm các mô hình chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng. Xây dựng cơ sở vật chất và mạng lưới tổ chức để thực hiện các dịch vụ này. 

  • Đẩy mạnh thực hiện các biện pháp để hạn chế đà tăng của tỷ số giới tính khi sinh. 

  • Thực hiện toàn diện các nội dung chăm sóc sức khỏe  sinh sản . Tập trung mọi nỗ lực để tăng cường khả năng tiếp cận và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe  sinh sản , tăng cường gắn kết các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình với chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, chú trọng vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và vùng biển, đảo và ven biển. 

  • Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giáo dục chuyển đổi hành vi, duy trì bền vững các hành vi lành mạnh về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục. 

  • Thực hiện các biện pháp để các bộ, ngành, các cấp khai thác, sử dụng dữ liệu điện tử chuyên ngành vào hoạch định chính sách và lập kế hoạch phát triển. 

  • Bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật nhằm hỗ trợ thực hiện chiến lược. 

7.1.2 Giai đoạn 2 (2016-2020) 

Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện giai đoạn 2011-2015, điều chỉnh chính sách phù hợp, triển khai toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện thành công các mục tiêu của chiến lược. 

  • Tập trung triển khai các hoạt động can thiệp nâng cao chất lượng dân số, chăm sóc toàn diện sức khỏe sinh sản, chăm sóc người cao tuổi. 

  • Duy trì và phát huy các biện pháp có hiệu quả kiểm soát và giảm tỷ số giới tính khi sinh. 

  • Đẩy mạnh khai thác, sử dụng dữ liệu điện tử về dân số-kế hoạch hóa gia đình vào công tác kế hoạch hóa, quản lý hành chính và cung cấp dịch vụ công. 

7.2 Các chương trình 

Nhà nước sẽ đầu tư ngân sách thông qua các Chương trình, dự án mục tiêu quốc gia về dân số và sức khỏe sinh sản với các chương trình, dự án cụ thể sau: 

7.2.1 Truyền thông, giáo dục chuyển đổi hành vi 

Mục đích: nâng cao nhận thức, hiểu biết về các vấn đề dân số và phát triển, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục gắn với bình đẳng giới; hình thành và duy trì những kỹ năng sống lành mạnh, an toàn, có lợi cho sự phát triển của cá nhân, gia đình để chủ động ứng phó với những thay đổi về dân số, kinh tế, xã hội và môi trường. Tạo môi trường chính sách và xã hội thuận lợi cho việc ổn định dân số và phát triển gia đình bền vững. 

7.2.2 Cải thiện chất lượng dân số và kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh 

Mục đích 

  1. Xây dựng và phát triển mạng lưới, thực hiện sàng lọc, chẩn đoán, điều trị bệnh trước sinh và sơ sinh nhằm giảm tỷ lệ trẻ em bị dị tật bẩm sinh, thiểu năng trí tuệ, bệnh rối loạn chuyển hóa và di truyền. 

  2. Tăng cường tư vấn, kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân; đáp ứng cơ bản nhu cầu thông tin, tư vấn chăm sóc sức khỏe tiền hôn nhân. 

  3. Ngăn chặn tình trạng lựa chọn giới tính thai nhi. 

  4. Tăng cường chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản nhằm bảo vệ và phát triển một số dân tộc thiểu số có nguy cơ suy thoái giống nòi. 

  5. Xây dựng các mô hình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi dựa vào cộng đồng để mở rộng trong giai đoạn sau. 

7.2.3 Cải thiện sức khỏe bà mẹ, trẻ em 

Mục đích 

Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước, trong và sau sinh nhằm giảm tử vong mẹ giảm bệnh, tật, tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi, góp phần nâng cao sức khỏe bà mẹ trẻ em; tăng khả năng tiếp cận và tạo nhu cầu sử dụng dịch vụ, thu hẹp đáng kể sự khác biệt về sức khỏe bà mẹ trẻ em giữa các vùng, miền. 

7.2.4 Nâng cao chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình 

Mục đích 

  1. Cung ứng đầy đủ, kịp thời hàng hóa phương tiện tránh thai. Đẩy mạnh tiếp thị xã hội và bán rộng rãi phương tiện tránh thai. Tăng cường năng lực sản xuất phương tiện tránh thai trong nước. 

  2. Đáp ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện nhu cầu sử dụng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình của mọi đối tượng với chất lượng ngày càng cao nhằm tăng tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại, giảm thiểu mang thai ngoài ý muốn và giảm thiểu các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản. 

  3. Tạo sự chuyển biến rõ rệt về năng lực, trình độ kỹ thuật, thái độ phục vụ của cán bộ y tế cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình bao gồm cả thực hiện tư vấn trước khi sử dụng dịch vụ, theo dõi và chăm sóc sau sử dụng dịch vụ. 

7.2.5 Hỗ trợ sinh sản 

Mục đích 

Hỗ trợ có hiệu quả các trường hợp vô sinh, giảm thiểu và hạn chế các nguy cơ dẫn tới vô sinh thứ phát. Phát triển các cơ sở hỗ trợ sinh sản và sinh con theo phương pháp khoa học ở các vùng, miền. Xây dựng các ngân hàng lưu trữ phôi, trứng và tinh trùng. Thực hiện quản lý, chăm sóc và theo dõi các đối tượng sử dụng dịch vụ. 

7.2.6 Phòng chống nhiễm khuẩn, ung thư đường sinh sản 

Mục đích 

Dự phòng, phát hiện và điều trị sớm nhiễm khuẩn đường sinh sản bao gồm cả các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDs. Tổ chức hệ thống cung cấp dịch vụ sàng lọc, chẩn đoán và điều trị ung thư đường sinh sản, ưu tiên sàng lọc, chẩn đoán sớm ung thư cổ tử cung và ung thư vú. 

7.2.7 Cải thiện chăm sóc sức khỏe sinh sản cho vị thành niên, thanh niên 

Mục đích 

Nâng cao nhận thức, tạo sự chuyển đổi bền vững về thái độ và hành vi sức khỏe sinh sản của vị thành niên và thanh niên, các bậc cha mẹ, thầy cô giáo, cộng đồng; xác lập các điều kiện thuận lợi, thân thiện, dễ tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe  sinh sản  có chất lượng. 

7.2.8 Cải thiện chăm sóc sức khỏe sinh sản các nhóm dân số đặc thù 

Mục đích 

Nâng cao nhận thức, tạo sự chuyển đổi bền vững về thái độ và hành vi sức khỏe sinh sản trong các nhóm dân số đặc thù (người di cư, người khuyết tật, người có HIV, người bị bạo hành giới, nạn nhân thiên tai, thảm họa,...), xác lập các điều kiện thuận lợi, thân thiện để các nhóm dân số đặc thù tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe  sinh sản  có chất lượng. 

7.2.9 Tăng cường năng lực quản lý chương trình và lồng ghép dân số - phát triển 

Mục đích

  1. Cải tiến công tác quản lý, ứng dụng công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính quốc gia, hiệu quả và hiệu lực quản lý, điều hành chương trình dân số và sức khỏe sinh sản, đồng thời bảo đảm sự thuận tiện đối với người dân. 

  2. Kiện toàn tổ chức, bộ máy và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác dân số và sức khỏe sinh sản các cấp; tăng cường phối hợp liên ngành. 

  3. Đẩy mạnh việc cập nhật và khai thác, sử dụng dữ liệu dân số-kế hoạch hóa gia đình vào công tác kế hoạch hóa, quản lý hành chính và cung cấp dịch vụ công. Thực hiện các biện pháp để các ngành, các cấp khai thác, sử dụng dữ liệu chuyên ngành dân số- kế hoạch hóa gia đình để lồng ghép các yếu tố dân số trong hoạch định chính sách, quy hoạch và lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. 

8 TẦM NHÌN VÀ DỰ BÁO 

Trong bối cảnh kinh tế-xã hội của đất nước đã là một nước công nghiệp, tốc độ đô thị hóa nhanh, hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế-xã hội và văn hóa của thế giới từ sau năm 2020, thực hiện thành công Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020 không chỉ góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước trong giai đoạn này, mà còn tạo cơ sở cho những chuyển biến tiếp tục về các yếu tố dân số và sức khỏe sinh sản theo hướng tích cực sau năm 2020. Căn cứ vào định hướng lớn có thể dự báo xu thế phát triển sau đây có liên quan đến dân số và sức khỏe sinh sản: 

Mức sinh và tốc độ gia tăng quy mô dân số tiếp tục giảm. Số phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (15-49 tuổi) liên tục duy trì ở mức cao và đạt cực đại vào năm 2030 khoảng 25,5 triệu người. Nếu duy trì được tổng tỷ suất sinh ở mức 1,8 con/phụ nữ vào năm 2030, thì quy mô dân số nước ta sẽ ở mức 103-104 triệu người và hướng đến ổn định ở mức dưới 110 triệu người vào giữa thế kỷ XXI, thấp hơn nhiều so với tất cả các dự báo trước đây. 

Việc tư vấn và kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân, sàng lọc trước sinh và sơ sinh nhằm phát hiện và xử lý sớm các trường hợp mắc bệnh, tật nguy hiểm trở thành nhu cầu thiết yếu của các cặp vợ chồng. Tỷ số giới tính khi sinh sẽ trở lại mức bình thường. Sau năm 2020, các điều kiện để thực hiện chính sách khuyến khích sinh trong một số nhóm dân số nhất định cũng chín muồi, tạo thêm các hướng mới để tác động nâng cao chất lượng dân số như một số nước hiện đã thực hiện. 

Tình trạng sức khỏe bà mẹ trẻ em, sức khỏe sinh sản sẽ tiệm cận mức của các nước phát triển trên cơ sở nhận thức và hành vi của người dân tăng lên, trong các điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, trình độ khoa học, công nghệ sinh học, điện tử và tin học. Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản được mở rộng toàn diện hơn trong khuôn khổ sức khỏe gia đình thay vì chỉ tập trung cho phụ nữ mang thai và trẻ em dưới 5 tuổi. Công tác dự phòng và giáo dục sức khỏe sẽ trở thành nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống chăm sóc sức khỏe nhằm đẩy mạnh tăng cường sức khỏe thay vì chỉ tập trung cho giải quyết bệnh tật sức khỏe sinh sản trở thành nhu cầu thường xuyên của người dân. 

9 TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 10/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030. 

2. Bộ y tế, “Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ Chăm sóc sức khỏe sinh sản”, 2018. 

3. Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, "QUYẾT ĐỊNH Về việc phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản, tập trung vào chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ giai đoạn 2021-2025", 2021. 


* SĐT của bạn luôn được bảo mật
* Nhập nếu bạn muốn nhận thông báo phẩn hồi email
Gửi câu hỏi
Hủy
    (Quy định duyệt bình luận)
    0/ 5 0
    5
    0%
    4
    0%
    3
    0%
    2
    0%
    1
    0%
    Chia sẻ nhận xét
    Đánh giá và nhận xét
      vui lòng chờ tin đang tải lên

      Vui lòng đợi xử lý......

      0 SẢN PHẨM
      ĐANG MUA
      hotline
      1900 888 633