Kỹ thuật tiêm chất làm đầy vùng má và gò má trong phẫu thuật thẩm mỹ
Trungtamthuoc.com - Một khuôn mặt trẻ trung và hấp dẫn được đặc trưng bởi vùng má nhô ra và đường nét rõ. Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu cho bạn đọc về kỹ thuật tiêm chất làm đầy vùng má và gò má trong phẫu thuật thẩm mỹ
Một khuôn mặt trẻ trung và hấp dẫn được đặc trưng bởi vùng má nhô ra và đường nét rõ. Vùng này của khuôn mặt được thấy rõ nhất ở góc 75° và đã được các nghệ sĩ từ thời cổ đại và gần hơn là các nhiếp ảnh gia sử dụng để nhấn mạnh vẻ đẹp trên khuôn mặt cũng như trong việc tạo ra các người mẫu kỹ thuật số 3D. Ở góc độ này, đường viền khuôn mặt thể hiện hình dạng của chữ cái Hy Lạp ç (sigma), còn được gọi là “đường cyma".
Quá trình tái cấu trúc xương do quá trình lão hóa liên quan đến sự teo và sự dịch chuyển xuống dưới của các lớp mỡ tại chỗ dẫn đến mất thể tích ở vùng này, dần dần trở nên phẳng hơn và trong những trường hợp nghiêm trọng trở nên lõm. Giảm cân và khuynh hướng bẩm sinh cũng có thể gây ra tình trạng giảm thể tích này.1-4
Làm đầy thể tích vùng má đòi hỏi người tiêm phải có kiến thức chuyên sâu về giải phẫu, cảm quan thẩm mỹ và kỹ năng kỹ thuật (Hình 10.7 và 10.27). Việc chỉnh sửa quá mức vùng má có thể làm tăng đường kính ngang của khuôn mặt, mang lại vẻ nam tính hơn cho phụ nữ. Khi điều trị vùng dưới ổ mắt, điều cần thiết là phải chọn mặt phẳng điều trị chính xác, vì tiêm rất sâu có thể không mang lại kết quả mong muốn, trong khi tiêm quá nông hoặc tiêm vào rãnh tear trough có thể gây phù nề kéo dài hoặc nhìn thấy rõ sản phẩm.
2 Giải phẫu
Các lớp mỡ
Mô mỡ ở 1/3 giữa khuôn mặt bao gồm phần nông và phần sâu. Phần nông bao gồm vùng nasolabial, vùng má trong, vùng má giữa và các lớp mỡ thái dương bên. Phần sâu bao gồm các phần trong và ngoài của lớp mỡ dưới ổ mắt (suborbicularis oculi fat, SOOF), còn được gọi là mỡ trước gò má, và các lớp mỡ má sâu bên trong và ngoài.5,6
Khi phần nông và phần sâu được tách ra, có thể thấy phần ổ mắt của cơ vòng mắt (orbicularis oculi muscle, OM) và hệ thống cân cơ nông (superficial muscular aponeurotic system, SMAS) bao gồm cơ nâng môi trên và cánh mũi, cơ nâng môi trên, cơ gò má lớn và bé, các mạch máu và dây thần kinh.
Các lớp mỡ nông ở nasolabial và má trong che phủ phần ổ mắt của OM, bắt nguồn từ dưới phần mí mắt, cách viền ổ mắt dưới 0,5 đến 1 cm. SOOF ở dưới phần ổ mắt của OM, nằm trên xương hàm trên và xương gò má.
Lớp mỡ nông ở má trong, lớp mỡ nông ở má giữa và lớp SOOF liên quan đến quá trình làm đầy vùng má (Hình 10.1, 10.2, 10.5 và 10.8-10.15).
3 Mạch máu
Lớp mỡ nông má trong và lớp SOOF trong được cung cấp máu bởi các nhánh của động mạch mặt và động mạch dưới ổ mắt.
Tĩnh mạch mặt đi qua 1/3 giữa của khuôn mặt ở phía ngoài hơn so với động mạch và sau khi đi qua bên dưới cơ gò má lớn, nó trở nên nông hơn giáp với SOOF về mặt trong. Ở phần trên, nó nằm sâu đến lớp mỡ nông má trong và nằm nông so với SOOF, sau đó nằm ở dưới OM.
Về phía ngoài, lớp mỡ má giữa và lớp SOOF ngoài được cấp máu bởi các nhánh xuyên của động mạch ngang mặt và động mạch gò má ổ mắt. Ở vùng này, các nhánh xuyên động mạch thưa và lớn, trái ngược với ở vùng trong, nơi chúng mông và nhiều (Hình 10.3-10.6).7-9
4 Thần kinh
4.1 Cảm giác
Sự phân bố thần kinh cảm giác được cung cấp bởi nhánh hàm trên của dây thần kinh sinh ba.
4.2 Vận động
Sự phân bố thần kinh vận động được cung cấp bởi các nhánh thái dương và gò má của dây thần kinh mặt (Hình 10.4–10.6).
Nếp gấp má (Malar fold)
Nếp gấp má được hiểu trên lâm sàng là phần mở rộng của rãnh tear trough ở vùng má. Theo Furnas, 10 đó là một đường xiên tưởng tượng kéo dài từ dây chằng gò má đến góc trong của mắt. Nguồn gốc của nó vẫn chưa rõ ràng, nhưng được cho là góp phần hình thành nếp gấp má.
• Dây chằng da: dải xơ bao phủ bó trong của OM có các sợi chèn vào da.
• Vách ngăn má: vách ngăn má dường như ban đầu là cấu trúc của OM. Nó bắt nguồn từ màng xương của viền ổ mắt dưới và đi theo hướng đuôi, đi vòng quanh phần trong của OM, sau đó hợp nhất với vách ngăn dạng sợi của lớp mỡ nông (superficial fat pad, SFP), chèn vào da 2.5 đến 3 cm tính từ góc ngoài. Nếp gấp má chia vùng má thành hai: phần ngoài, trên xương gò má và SOOF, phần trong và phần dưới, nằm trên vùng cơ nâng môi trên. 11-15
5 Kỹ thuật
Mục tiêu là để khôi phục lại thể tích đã bị mất trong quá trình lão hóa hoặc trong quá trình giảm cân, cung cấp cho bệnh nhân độ nhô dưới ổ mắt và, nếu cần, độ nhô vùng xương gò má. Việc làm đầy phần sau là cần thiết trong những trường hợp cụ thể khi thể tích bổ sung không mang lại vẻ nam tính khi đường kính của khuôn mặt tăng lên. Để có hiệu ứng tự nhiên và cân đối, cần tập trung vào vùng bị giảm thể tích mà không làm thay đổi hình dạng khuôn mặt của bệnh nhân.
Nên ưu tiên tiêm chất làm đầy bằng cannula vì nguy cơ tiêm vào mạch máu và hình thành khối máu tụ thấp hơn. Khi điều trị các mặt phẳng sâu hơn, chẳng hạn như lớp SOOF trong, điều quan trọng cần nhớ là tĩnh mạch mặt di chuyển phía trên SOOF và bên dưới phần ổ mắt của cơ vòng mắt. Có ít tỷ lệ phù nề hơn và bệnh nhân cảm thấy thoải mái hơn khi sử dụng cannula vì nó có thể làm đầy toàn bộ vùng dưới ổ mắt và vùng gò má chỉ bằng một điểm vào.
Trong khi sử dụng kim để tiêm chất làm đầy, tránh lỗ foramen dưới ổ mắt. Hút và tiêm từ từ.
Một số bác sĩ đề nghị làm đầy lớp mỡ má trong bên dưới SMAS, cần lượng HA lớn hơn. Chúng tôi không sử dụng phương pháp này không chỉ vì những lý do nêu trên mà còn vì nó nguy hiểm hơn do sự hiện diện của các mạch máu và dây thần kinh trong SMAS.
Các kỹ thuật được sử dụng được mô tả bên dưới:
Kỹ thuật dùng cannula nông cho vùng má
Xem hình 10,22, 10,25 và 10,26.
Kỹ thuật dùng kim nông cho vùng má
Xem hình 10.20.
Kỹ thuật dùng kim sâu cho vùng má
Xem hình 17-10/10.
Kỹ thuật dùng cannula sâu cho vùng má
Xem hình 10.16 và 10.21-10.24.
Kỹ thuật dùng kim cho vùng xương gò má
Xem hình 27-10-10.32.
Kỹ thuật dùng cannula cho vùng xương gò má
Xem hình 10.33 và 10.34.
6 Biến chứng
Phù nề từ nhẹ đến trung bình có thể xảy ra ngay sau thủ thuật, liên quan đến thể tích tiêm, độ nhạy cảm của từng bệnh nhân, mặt phẳng tiêm và loại sản phẩm. Đau hoặc khó chịu ở chỗ tiêm là phổ biến và tự khỏi trong vòng 2 đến 3 ngày. Khối máu tụ có thể được hạn chế bằng cách sử dụng cannula, nhưng chúng vẫn có thể xảy ra ở điểm vào của cannula, mặc dù ở mức độ thấp hơn.
Một biến chứng hiếm gặp là tình trạng phù nề khởi phát muộn vài tháng sau thủ thuật.
7 Kết luận
Làm quen với các lớp mỡ ở 1/3 giữa khuôn mặt, cũng như với hệ thống cơ, sự phân bố mạch máu và phân bố thần kinh tại chỗ là điều cơ bản để đạt được thể tích đầy đủ và an toàn ở vùng má và xương gò má. Việc tiêm vào đúng lớp mỡ và mặt phẳng sẽ mang lại kết quả tuyệt vời, khiến cả bệnh nhân và bác sĩ đều hài lòng (Hình 10.35- 10.37).
8 Tài liệu tham khảo
1. Braz AV, Sakuma TH. Midface rejuvenation: an innovative technique to restore cheek volume. Dermatol Surg 2012;38(1):118-120
2. Raspaldo H. Volumizing effect of a new Hyaluronic Acid subdermal facial filler: a retrospective analysis based on 102 cases. J Cosmet Laser Ther 2008;10(3):134-142
3. Carruthers JD, Carruthers A. Facial sculpting and tissue augmentation. Dermatol Surg 2005;31(11 Pt 2):1604-1612
4. Hoffmann K; Juvéderm Voluma Study Investigators Group. Volumizing effects of a smooth, highly cohesive, viscous 20-mg/mL hyaluronic acid volumizing filler: prospective European study. BMC Dermatol 2009;9:9
5. Rohrich RJ, Pessa JE. The fat compartments of the face: anatomy and clinical implications for cosmetic surgery. Plast Reconstr Surg 2007;119(7):2219-2227, discussion 2228-2231
6. Rohrich RJ, Pessa JE, Ristow B. The youthful cheek and the deep medial fat compartment. Plast Reconstr Surg 2008;121(6):2107-2112
7. Whetzel TP, Mathes SJ. Arterial anatomy of the face: an analysis of vascular territories and perforating cutaneous vessels. Plast Reconstr Surg 1992;89(4):591-603, discussion 604-605
8. Schaverien MV, Pessa JE, Rohrich RJ. Vascularized membranes determine the anatomical boundaries of the subcutaneous fat compartments. Plast Reconstr Surg 2009;123(2):695-700
9. Furukawa M, Mathes DW, Anzai Y. Evaluation of the facial artery on computed tomographic angiography using 64-slice multidetector computed tomography: implications for facial reconstruction in plastic surgery. Plast Reconstr Surg 2013; 131(3):526-535
10. Furnas DW. The retaining ligaments of the cheek. Plast Reconstr Surg 1989;83(1):11-16
11. Rohrich RJ, Pessa JE. The retaining system of the face: histologic evaluation of the septal boundaries of the subcutaneous fat compartments. Plast Reconstr Surg 2008;121(5):1804-1809
12. Pilsl U, Anderhuber F, Rzany B. Anatomy of the cheek: implications for soft tissue augmentation. Dermatol Surg 2012;38(7 Pt 2):1254-1262
13. Ghassemi A, Prescher A, Riediger D, Axer H. Anatomy of the SMAS revisited. Aesthetic Plast Surg 2003;27(4):258-264
14. Pessa JE, Garza JR. The malar septum: the anatomic basis of malar mounds and malar edema. Aesthet Surg J 1997;17(1): 11-17
15. Andre P, Azib N, Berros P, et al. Anatomy and volumizing injections. Paris: E2e Medical Publishing; 2012
0Thích
tiêm chất làm đầy vùng má và gò má có gây biến chứng gì không?
Bởi: Lan vào
Thích (0) Trả lời1
Một số biến chứng có thể gặp như: phù nề, đau tại chỗ tiêm, tụ máu,...Chị nên cân nhắc lựa chọn cơ sở uy tín để thực hiện nhé!