Kỹ thuật tiêm chất làm đầy vùng cằm và đường viền hàm dưới
Trungtamthuoc.com - Kỹ thuật tiêm chất làm đầy vùng cằm và đường viền hàm dưới giúp đường xương hàm dưới rõ, cằm cân đối, góp phần tạo nên một khuôn mặt trẻ trung và hấp dẫn. Cùng tìm hiểu về kỹ thuật tạo hình thẩm mỹ qua bài viết dưới đây.
Đường viền của 1/3 dưới của khuôn mặt được xác định bởi cạnh dưới của hàm dưới. Một đường xương hàm dưới rõ ràng, cằm cân đối và góc hàm dưới rõ là tất cả những đặc điểm của một khuôn mặt trẻ trung và hấp dẫn.
Tiêm chất làm đầy với axit hyaluronic (HA) có độ nhớt và kết dính nhiều hơn là một lựa chọn tuyệt vời để tái cấu trúc đường nét trên khuôn mặt, giúp khôi phục thể tích bị mất theo thời gian hoặc để mang lại độ nhô và đường nét rõ hơn cho một số kiểu mặt.
Ba kiểu khuôn mặt khác nhau thường được xác định trong y văn. Kiểu mặt mesofacial (mặt trung bình) thể hiện sự cân bằng, trong khi kiểu mặt brachyfacial (mặt ngắn) và kiểu mặt dolichofacial (mặt dài) nằm ở hai cực của thang đo sinh trắc học khuôn mặt. Những người có kiểu mặt mesofacial có kích thước ngang và dọc tương xứng. Kiểu mặt brachyfacial và dolichofacial có các đặc điểm trái ngược hoàn toàn; những người kiểu brachyfacial có khuôn mặt ngắn hơn và rộng hơn so với những người kiểu dolichofacial. Điều quan trọng cần nhớ là cách phân loại này mang tính học thuật, vì vậy hàng ngày bạn sẽ gặp những bệnh nhân có đặc điểm trung gian giữa kiểu này với kiểu. Ngoài ra còn có một cách phân loại khuôn mặt theo vị trí của hàm dưới trong mỗi tương quan với hộp sọ. Hầu hết mọi người thấy mặt nhìn nghiêng loại I hấp dẫn (hàm dưới bình thường hoặc thăng). Mặt nhìn nghiêng loại II có biểu hiện tăng độ lồi của mặt do thừa hàm trên hoặc thiếu hàm dưới ít gặp. Thông thường, một hàm trên với nét mặt đẹp có thể được thấy ở những người có 1/3 dưới khuôn mặt bị thiếu và đường cằm-cổ ngắn. Những người có kiểu mặt brachyfacial và loại II có thể có lợi từ việc tiêm chất làm đầy vào phần dưới của khuôn mặt. Điều quan trọng cần nhớ là đánh giá nha khoa là nền tảng, vì quy trình này giúp tăng thể tích nhưng không khắc phục được những thay đổi về khớp cắn.1-4
1/3 dưới của khuôn mặt cũng khác nhau giữa hai giới. Khuôn mặt của một người nam có nhiều đường nét hơn, đường viền và các góc hàm dưới được xác định rõ hơn. Tuy nhiên, ở phụ nữ, hai dạng khuôn mặt chiếm ưu thế.
• Khuôn mặt hình trái tim: vùng má và xương gò má lộ rõ, đường viền dưới mỏng và biểu hiện không quá rõ.
• Khuôn mặt góc cạnh: vùng má và xương gò má nổi bật, đường viền dưới biểu hiện rõ với đường và góc hàm dưới được xác định rõ.
2 Giải phẫu
Hàm dưới, bao gồm một phần hình móng ngựa gọi là thân và hai phần vuông góc, được gọi là nhánh, được nối với phần thân gần như vuông góc. Mặt ngoài có đường gờ nhẹ ở giữa, đánh dấu chỗ ghép xương hàm dưới hoặc điểm nối giữa hai phần tạo thành xương của thai nhi. Khoảng cách giữa cầm và góc hàm dưới được gọi là đường hàm dưới.5
Răng hàm dưới nằm ở phần ổ răng của hàm dưới. Lỗ cằm (mental foramen, MF) nằm ở hàm dưới, bên dưới răng hàm nhỏ thứ hai; cho phép các dây thần kinh và mạch máu đi qua. Động mạch mặt (facial artery, FA) và tĩnh mạch mặt (facial vein, FV) chạy từ cạnh dưới của thân xương hàm dưới, sau đó di chuyển tới cạnh trước của cơ cắn. Nhịp đập của chúng có thể dễ dàng được cảm nhận ở điểm này.
Reece, Pessa và Rohrich xác định được bốn khối mỡ có liên quan ở vùng hàm dưới: hai khối mỡ phía trên cạnh hàm dưới, được gọi là khối mỡ nông và sâu hàm dưới (superficial and deep mandibular fat pad), một khối mỡ dưới hàm dưới (submandibular fat pad) và một khối mỡ khác bao phủ cân cơ hàm dưới (cạnh thái dương). Một vách ngăn dạng màng ngăn cách hai khối mỡ nằm phía trên cạnh hàm dưới của khối mỡ dưới hàm dưới và được gọi là vách ngăn hàm dưới. Ở phía trước, đây là phần tiếp theo của dây chằng hàm dưới, có thể được tìm thấy phía sau cơ hạ góc miệng (depressor muscle of the angle of the mouth, DMAM) trước khi nó bám vào da. Các sợi của cơ bám da cổ (platysma) gắn vào vách ngăn hàm dưới và bám vào cạnh trước của hàm dưới6-8
Quá trình lão hóa của đường viền hàm dưới được gây ra bởi các cơ chế khác nhau: teo các lớp mỡ trên và dưới hàm dưới, với sự nổi bật của khối mỡ dưới hàm dưới, nứt vách ngăn hàm dưới với tình trạng bị sa xuống của các khối mỡ trên và dưới về phía cổ, tiêu xương và tình trạng nhão của da tại chỗ (Hình 17.1-17.20, 17.23, 17.24 và 17.43).
3 Kỹ thuật
Đối tượng lý tưởng cho kỹ thuật này bao gồm những người bị mất đường nét khuôn mặt ở mức độ nhẹ đến trung bình. Quy trình này cũng có thể được thực hiện trên bệnh nhân nam để củng cố khu vực thể hiện sự nam tính. Phương pháp tăng thể tích này cũng được chỉ định cho những phụ nữ có khuôn mặt hình trái tim, khi mong muốn nhấn mạnh cạnh dưới của khuôn mặt.
Đối với vùng cằm, đối tượng phù hợp nhất là những người từ khi còn trẻ đã cần tăng thể tích căm (brachyfacials hoặc góc nghiêng loại II) và không muốn độn vĩnh viễn. Những bệnh nhân qua nhiều năm đã phải chịu sự thay đổi về hình dạng cằm và cần trẻ hóa cũng như định hình lại vùng này cũng là đối tượng phù hợp.
Chúng tôi thích sử dụng cannula để làm đầy vùng này.9.10 Cannula có đầu cùn, mang lại độ an toàn cao hơn vì chúng làm giảm nguy cơ tổn thương mạch máu và dây thần kinh, mặc dù quy trình này không hoàn toàn không có biến chứng: cannula 22 G và 25 G có chiều dài từ 40 đến 50 mm được chỉ định để tiêm HA có độ nhớt hơn, được coi là chất làm tăng thể tích. Một ưu điểm quan trọng khác của cannula là người tiêm có thể xác định chính xác mặt phăng tiêm đúng, đó là mặt phẳng dưới da và trong một số trường hợp là mặt phẳng trên màng xương. Đầu cùn của microcannula, không có khả năng cắt, không thể xuyên qua lớp bì nhưng trượt dễ dàng trong mặt phẳng dưới da. Mặc dù các vùng cần chỉnh sửa và các kỹ thuật điều trị tương ứng được mô tả riêng biệt nhưng không được quên rằng hai hoặc ba vùng có thể được kết hợp cùng một lúc.
Chúng tôi sử dụng ba kỹ thuật khác nhau để điều trị đường viền hàm dưới tùy theo nhu cầu của bệnh nhân, được mô tả dưới đây.
3.1 Tiêm chất làm đầy vào góc hàm dưới và nhánh hàm dưới
Để đánh dấu khu vực này, sờ góc hàm dưới và vẽ hai đường cách góc hàm dưới khoảng 3 cm: một trên thân và một trên nhánh đứng. Sau đó, vẽ một đường nối hai cạnh, đánh dấu giới hạn trên của vùng cần làm đầy.
Tạo một lỗ với kim 21 G, đưa vát vào nông, vừa đủ để xuyên qua các mô xơ của lớp bì. Điểm vào có thể được thực hiện ở hai vị trí: góc hàm dưới hoặc ở cuối đường ngang. Người tiêm phải đặc biệt chú ý vì FA chạy dọc theo cạnh dưới của phần thân, ở trước cạnh trước của cơ cắn. Đưa cannula lên tới góc hàm dưới trong mặt phẳng dưới da, nơi cần tiêm HA bằng đường tiêm thụt lùi (retrograde injection). Sau đó, thay đổi hướng của cannula sao cho nó hướng về phía nhánh xương hàm dưới, trong mặt phẳng dưới da và thực hiện tiêm thụt lùi, làm đầy vùng đã đánh dấu trước đó. Sau khi làm đầy, nặn vùng được điều trị bằng cách dùng ngón trò ấn vào xương hàm dưới (Hình 17.22, 17.39 , 17.40 và 17.42).
3.2 Định hình lại đường hàm dưới
Để định hình lại đường hàm dưới, đánh dấu xung quanh vùng sa trễ trên đường hàm dưới là nguyên nhân gây ra tình trạng da nhão hoặc sự di chuyển huyển của lớp mỡ. Sau khi đánh dấu vùng sa trễ, chỗ không nên làm đầy, vẽ hai đường ngang song song đánh dấu đường viền hàm dưới lên đến góc hàm dưới. Sau đó, bôi thuốc gây tê (tùy chọn) và tạo một lỗ tại vị trí được chỉ định bằng cách đưa cannula nói trên theo hướng của góc hàm dưới, trong mặt phẳng dưới da, và tiêm sản phẩm bằng cách tiêm thụt lùi. Nếu cần tăng chiều dài khuôn mặt, thì vùng bên dưới vách ngăn hàm dưới cũng cần được làm đầy. Sau đó, khu vực được làm đầy sẽ được nặn bằng cách tạo áp lực vừa phải (Hình 17.21, 17.22, 17.37 và 17.38).
3.3 Vùng cạnh cầm
Ở một số người, lão hóa gây ra sự mất thể tích trong cơ căm, và điều này trở nên trầm trọng hơn khi mất Collagen ở da kèm theo sự sa trễ do sự dịch chuyển của mỡ dưới da.
Để đánh dấu vùng cần làm đầy, vẽ một hình bán nguyệt trên vùng cằm và một hình bán nguyệt khác trên vùng bị ảnh hưởng bởi sa trễ trên đường hàm dưới. Vẽ một đường trên cạnh hàm dưới nối hai dấu nêu trên, và cách đường đó 2 cm, vẽ một đường song song khác, xác định khoảng trống cần điều trị
Với việc tiêm chất làm đầy bằng cannula, hãy bôi thuốc gây tê, tạo một lỗ bằng kim, sau đó đưa cannula vào giữa hai đường song song và làm đầy khoảng trống được đánh dấu bằng kỹ thuật tiêm thụt lùi. Cuối cùng, nặn chất làm đầy bằng cách dùng ngón trỏ ấn vào xương hàm dưới. Việc tiêm chất làm đầy này được áp dụng phía trên màng xương trong mặt phẳng sâu dưới da (Hình 17.21, 17.22, 17.31-17.35 và 17.41).
3.4 Cằm
Khi bệnh nhân có kiểu mặt loại II với đánh giá chỉnh nha, tức là cằm lẹm, có thể sử dụng phương pháp điều trị chỉnh nha và có thể cần phải phẫu thuật chỉnh hình. Tiêm chất làm đầy có thể được chỉ định để giúp giảm bớt khiếm khuyết cấu trúc này, cùng với việc đánh giá khớp của bác sĩ phẫu thuật nha khoa. Một chỉ định khác áp dụng cho những bệnh nhân không bị cằm lẹm nhưng có căm nhỏ không cân đối.
Vùng cằm gồm ba lớp mô: da, lớp cơ-mỡ và màng xương trung tâm của xương hàm dưới. Lớp cơ bao gồm ba cơ: DMAM, cơ hạ môi dưới và cơ căm, nổi phía dưới với cơ bám da cổ. Rãnh cằm môi có thể được nhìn thấy ở đường giữa, được hình thành bởi một lớp sợi đàn hồi kéo dài từ khớp gắn hàm dưới đến da. Sâu trong cơ cằm có hai khối mỡ được ngăn cách bởi rãnh này, không vượt qua đường giữa.
Một điểm vào có thể được tạo ở ba vị trí khác nhau để đưa cannula hoặc kim vào. Một lựa chọn cho lỗ vào là vị trí nằm phía dưới vùng cằm, đưa cannula hoặc kim vào mặt phẳng trên màng xương và tiêm sản phẩm. Một khả năng khác là đâm kim vào cùng những điểm được đánh dấu để tiêm botulinum toxin, vượt qua cơ và đặt sản phẩm vào mặt phẳng trên màng xương. Đối với khả năng này, chúng tôi khuyên chỉ nên sử dụng kim tiêm. Rút kiểm tra và tiêm từ từ.
Bắt đầu bằng cách đánh dấu vùng cằm, vẽ một đường quanh căm theo hình bán nguyệt lên đến xương hàm dưới ở cả hai bên. Sau đó, vẽ một đường thẳng đứng ở giữa vùng đã đánh dấu trước đó, giữa hai bụng của cơ căm. Sờ nắn phần đáy xương của vùng được đánh dấu và vẽ một đường ngang lên hình bán nguyệt. Sau đó, vẽ một đường thẳng song song cách đường trước đó 1,5 cm. Hình chữ nhật này là vùng được đề xuất để tiêm chất làm đầy HA. Sau khi yêu cầu bệnh nhân co căm, chúng tôi khuyên nên đánh dấu hai điểm, một điểm trên mỗi bụng của cơ cằm tiêm 2 đến 3U botulinum toxin vào mỗi điểm cùng lúc với việc tiêm chất làm đầy.
Sau khi tạo lỗ bằng kim, đưa cannula vào, chạm tới mặt phẳng trên màng xương, trượt nó vào giữa hình chữ nhật ở phía đang được điều trị. Tại điểm này, giữ yên cannula, tiêm từ 0,1 đến 0,3 ml sản phẩm. Trong một số trường hợp, để làm hài hòa vùng điều trị, di chuyển cannula và tiêm thêm 0,1 ml sản phẩm bằng cách tiêm thụt lùi vào mặt phẳng dưới da ở trên cơ, ở vùng hình chữ nhật tương ứng. Rút cannula và nắn cho vùng được điều trị bằng các động tác chắc chắn và chính xác (Hình 17.21, 17.22, 17.25-17.30 và 17.41).
3.5 Rãnh cằm môi
Xem Hình 17.36.
4 Các trường hợp lâm sàng
Xem Hình. 17,44-17,71.
5 Tài liệu tham khảo
1. Carruthers A, Carruthers J, Monheit GD, Davis PG, Tardie G. Multicenter, randomized, parallel-group study of the safe- ty and effectiveness of onabotulinumtoxinA and hyaluronic acid dermal fillers (24-mg/ml smooth, cohesive gel) alone and in combination for lower facial rejuvenation. Dermatol Surg 2010;36(Suppl 4):2121-2134
2. Jefferson Y. Skeletal types: key to unraveling the mystery of facial beauty and its biologic significance. J Gen Orthod 1996;7(2):7-25
3. Reis SAB, Abrão J, Filho LC, Claro CAA. Análise facial subjetiva. Rev Dent Press Ortodon Ortop Facial 2006;11(5):159-172
4. Carruthers JD, Glogau RG, Blitzer A; Facial Aesthetics Consensus Group Faculty. Advances in facial rejuvenation: botulinum toxin type a, hyaluronic acid dermal fillers, and combination therapies consensus recommendations. Plast Reconstr Surg 2008; 121(5, Suppl):5S-30S, quiz 31S-36S
5. Goss CM. Gray anatomia. 29a edição. Rio de Janeiro: Guanaba- ra Koogan; 1988
6. Reece EM, Pessa JE, Rohrich RJ. The mandibular septum: an- atomical observations of the jowls in aging-implications for facial rejuvenation. Plast Reconstr Surg 2008;121(4):1414-1420
7. Reece EM, Rohrich RJ. The aesthetic jaw line: management of the aging jowl. Aesthet Surg J 2008;28(6):668-674
8. Hazani R, Chowdhry S, Mowlavi A, Wilhelmi BJ. Bony ana- tomic landmarks to avoid injury to the marginal mandibular nerve. Aesthet Surg J 2011;31(3):286-289
9. Braz AV, Mukamal LV, Costa DLM. Manejo cosmético del tercio médio e inferior de la cara. In: Atamoros FP, Merino JE, eds. Dermatologia Cosmética. Cidade do México: Elsevier Masson Doyma; 2011
10. Belmontesi M, Grover R, Verpaele A. Transdermal injection of Restylane SubQ for aesthetic contouring of the cheeks, chin, and mandible. Aesthet Surg J 2006;26(1S):S28-S34