Kiến thức về phong bế thần kinh vùng mặt trong phẫu thuật thẩm mỹ
Dịch: Bác sĩ Trương Tấn Minh Vũ
TẢI BẢN PDF TẠI ĐÂY
1 Giới thiệu
Phong bế thần kinh bao gồm việc tiêm Dung dịch gây tê vào thân chính của dây thần kinh hoặc xung quanh để giảm đau ở vùng phân bố cảm giác của nó. Một trong những ưu điểm của cách này là một mũi tiêm được định vị chính xác, có thể làm giảm nhạy cảm diện tích lớn mà không làm biến dạng mô tại vị trí tiêm. Vì nhiều dây thần kinh đi kèm với các tĩnh mạch và động mạch tương ứng nên việc test áp lực âm trước là cần thiết để giảm nguy cơ tiêm vào mạch máu 2
2 Cấu trúc giải phẫu các lỗ ra trên mặt
Việc phong bế thần kinh thành công phụ thuộc phần lớn vào kiến thức của người tiêm về vị trí của các lỗ ra thần kinh. Người tiêm tận dụng sự thẳng hàng của các lỗ ra chính trên khuôn mặt, phân bổ dọc theo đường giữa đồng tử, khi mắt ở vị trí bình thường và nhìn về phía trước một cách tự nhiên (Hình 5.1 và 5.2).
3 Thần kinh trên ổ mắt
Dây thần kinh trên ổ mắt đi ra khỏi lỗ ra ở gờ trên của ổ mắt, cách đường giữa của vùng gian mày khoảng 27 mm về phía ngoài. Lỗ ra này có thể dễ dàng sờ thấy ở phần lớn bệnh nhẫn. Sau khi đi ra khỏi lỗ ra, dây thần kinh đi qua các cơ cau mày và chia thành phần trong và phần ngoài (Hình 5.3–5.6).1,3
4 Thần kinh trên ròng rọc
Dây thần kinh trên ròng rọc đi ra từ một rãnh hoặc lỗ ra, cách đường giữa của vùng gian mày khoảng 17 mm và chi phối phần trong của trán. Dây thần kinh dưới ròng rọc đi ra từ lỗ dưới ròng rọc và chi phối mí mắt trên trong, góc mắt trong, da sống mũi, kết mạc và túi lệ. Khi tiêm vào khu vực này, người tiêm phải luôn sử dụng tay không tiêm để sờ nắn viền ổ mắt, đảm bảo rằng đầu kim nằm phía trên gò xương của ổ mắt. Dây thần kinh dưới ròng rọc được phong bế bằng cách tiêm thuốc gây tê vào điểm nối giữa ổ mắt và xương mũi (Hình 5.7–5.9).
5 Thần kinh dưới ổ mắt
Dây thần kinh dưới ổ mắt đi ra từ lỗ dưới ổ mắt (IOF) khoảng 5 đến 10 mm dưới viền dưới ổ mắt, theo một đường tưởng tượng từ giữa đồng tử. Các vùng được gây tê bao gồm một bên mũi, mí mắt dưới và bờ trên của mỗi được tiêm. Dây thần kinh này có thể được phong bế từ bên trong hoặc bên ngoài. Phương pháp tiêm trong miệng bao gồm bôi gel gây tê lên niêm mạc miệng dọc theo rãnh trước, sau đó ở dưới hố răng nanh (giữa răng nanh và răng hàm nhỏ thứ nhất) và đợi trong vài phút. Sau đó, môi trên được nâng lên và kim được đưa vào rãnh, hướng lên phía IOF. Dây thần kinh dưới ổ mắt cũng có thể dễ dàng được phong bế bằng phương pháp xuyên qua da mặt, đây có thể là con đường in thích đối với những bệnh nhân mắc chứng “ám ảnh răng". Kim được đưa vào da theo hướng lỗ ra, nhưng phải cẩn thận để tránh các mạch máu nông có thể gây bầm (Hình 5.10-5.14).
6 Thần kinh cằm
Dây thần kinh cằm (MN) đi ra từ lỗ cắm (MF) ở chân răng hàm nhỏ thứ hai (nhiều bệnh nhân có thể không còn răng hàm nhỏ do nhổ răng chỉnh nha). Trung bình, MF nằm cách đường viền nướu 11 mm. Ngoài ra, MN có thể được phong bế qua da mặt bằng cách nhắm kim vào cùng điểm. Vùng được gây tê là một bên môi dưới lên đến đường giữa và phần bên đến rãnh cằm môi (Hình 5.15– 5.19).
7 Tài liệu tham khảo
1. Carruthers J, Carruthers A. Técnicas de preenchimento. 2nd ed. São Paulo: Elsevier, 2008
2. Niamtu J III. Simple technique for lip and nasolabial fold anesthesia for injectable fillers. Dermatol Surg 2005;31(10):1330-1332
3. Goss CM. Gray anatomia. 29nd ed. Rio de Janeiro: Guanabara Koogan; 1988