Dậy thì sớm ở trẻ em: nguyên nhân, dấu hiệu, cách điều trị

Trungtamthuoc.com - Trẻ dậy thì sớm cũng có thể gây khó khăn về mặt cảm xúc và xã hội. Chẳng hạn, những bé gái dậy thì sớm có thể bối rối khi có kinh nguyệt hoặc có ngực nở nang hơn các bạn bè cùng trang lứa. Thậm chí, cảm xúc và hành vi cũng có thể thay đổi ở trẻ em dậy thì sớm. Các bé gái có thể trở nên ủ rũ và cáu kỉnh và các bé trai có thể trở nên hung dữ hơn và cũng như có ham muốn tình dục sớm. Vậy dậy thì sớm ở trẻ nhận biết và điều trị như thế nào?
1 Dậy thì sớm là gì?
Dậy thì sớm là các thay đổi về dấu hiệu thể chất và nội tiết của sự phát triển tuổi dậy ở trẻ nhưng lại diễn ra ở độ tuổi sớm hơn so với bình thường. Hiện nay các bé gái được coi là dậy thì sớm trong độ tuổi từ 6 đến 8 tuổi, còn bé trai là trước trước 9 tuổi.
2 Nguyên nhân trẻ dậy thì sớm
Nguyên nhân của dậy sớm ở trẻ thường không được biết. Người ta cho rằng dậy thì sớm trung ương là do đột biến gen MKRN3, gen này tạo ra một protein định hướng ban đầu cho tuổi dậy thì. Trẻ đến tuổi dậy thì, vùng dưới đồi của não bắt đầu kích thích để giải phóng các đợt hormon giải phóng gonadotropin (GnRH). Hormone này kích hoạt sự giải phóng các hormon khác phát triển bộ phận và chức năng sinh dục. Theo các nghiên cứu cho thấy rằng protein bởi MKRN3 ức chế quá trình giải phóng GnRH từ vùng dưới đồi làm trẻ không thể dậy thì. Khi gen này bị đột biến, làm tăng sản xuất protein MKRN3, từ đó vùng dưới đồi sẽ giải phóng các đợt hormon kích thích sự khởi phát dậy thì sớm hơn bình thường.

Thông thường, đặc biệt là với các bé gái, dậy thì sớm là do não gửi tín hiệu sớm hơn bình thường, có thể do di truyền.
Nhưng đôi khi trẻ cũng dậy thì sớm do có chấn thương thần kinh hay khối u ở não. Nếu trẻ có các vấn đề về tuyến giáp hay buồng trứng cũng có thể dẫn đến dậy thì sớm.
Dậy thì sớm là ít gặp hơn ở các bé trai, nhiều khi là do ảnh hưởng của một bệnh lý nào đó. Có khoảng 5% bé trai dậy thì sớm là có yếu tố di truyền.
Một số trường hợp trẻ dậy thì sớm bẩm sinh là do bị não úng thủy, có nang tuyến yên hay nang màng nhện.[1]
3 Dấu hiệu dậy thì sớm ở trẻ em
3.1 Biểu hiện dậy thì sớm ở bé gái
Các bé gái dậy thì sớm sẽ có các biểu hiện đặc trưng như sau:
Dấu hiệu đầu tiên và rõ ràng nhất của dậy thì sớm là tăng sản xuất estrogen làm phát triển bầu ngực, ban đầu có thể phát triển lệch ở một bên. Sau đó đường kính bầu ngực tăng lên, quầng xung quanh nhũ hoa sẽ sẫm màu và dày lên.
Lông mu và lông nách có thể xuất hiện trước, cùng lúc, hoặc sau khi xuất hiện mô vú, đồng thời lúc này trẻ thường xuất hiện hôi nách luôn. Và bộ phận sinh dục dưới cũng phát triển, niêm mạc âm đạo đỏ đậm, bên ngoài màu hồng phấn.
Trẻ thường bắt đầu có kinh nguyệt muộn hơn và không đều cho đến 2-3 năm sau khi vú phát triển.
Ở một số trẻ còn có thể xuất hiện mụn trứng cá nhẹ.
3.2 Biểu hiện dậy thì sớm ở bé trai
Dấu hiệu sớm nhất của dậy thì sớm ở bé trai là sự phát triển của tinh hoàn, điều này phụ thuộc vào việc tăng sản xuất hormone FSH. Lúc này chiều dài tinh hoàn lớn hơn 2,5 cm hoặc thể tích tinh hoàn từ 4m trở lên. Nếu các dấu hiệu của thừa androgen xảy ra mà bé không tăng kích thước tinh hoàn, cần kiểm tra nguyên nhân có thể gây ra giả mạc sớm như: Tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh, dậy thì sớm ở nam giới và khối u tế bào Leydig.
Sau khi tăng sản xuất Testosterone và 1 đến 2 năm sau khi mở rộng tinh hoàn trẻ có các dấu hiệu khác như dương vật phát triển, đỏ và mỏng bìu, tăng lông mu.
Nếu trẻ có lông mu mà không có sự phát triển của dương vật và tinh hoàn thì rất có thể là tăng sản xuất androgen ở bệnh nào đó hơn là dậy thì thực sự.
Sau đó trẻ sẽ có các dấu hiệu phát triển khác của tuổi dậy thì như: mụn trứng cá, thay đổi giọng nói và tóc trên khuôn mặt.[2]

4 Dậy thì sớm ảnh hưởng đến trẻ như thế nào?
Như chúng ta đã biết, khi kết thúc dậy thì, thì sự tăng trưởng chiều cao dừng lại. Do đó, ở những trẻ này sự phát triển xương dừng lại ở độ tuổi sớm hơn bình thường, nếu không được điều trị thường trẻ sẽ thấp hơn. Mặc dù ban đầu trẻ có thể cao hơn các bạn cùng lứa tuổi nhưng về sau sẽ không cao được như có thể.
Trẻ dậy thì sớm cũng có thể gây khó khăn về mặt cảm xúc và xã hội. Chẳng hạn, những bé gái dậy thì sớm có thể bối rối khi có kinh nguyệt hoặc có ngực nở nang hơn các bạn bè cùng trang lứa. Thậm chí, cảm xúc và hành vi cũng có thể thay đổi ở trẻ em dậy thì sớm. Các bé gái có thể trở nên ủ rũ và cáu kỉnh và các bé trai có thể trở nên hung dữ hơn và cũng như có ham muốn tình dục sớm.[3]
5 Phương pháp điều trị dậy thì sớm ở trẻ nhỏ
5.1 Điều trị cho trẻ bị dậy thì sớm do có khối u
Nếu trẻ bị dậy thì sớm do có u tác động đến thần kinh trung ương thì cần tiến hành phẫu thuật.
Cần tiến hành phẫu thuật cắt bỏ hết mức có thể mà không gây ảnh hưởng đến các cấu trúc quan trọng như dây thần kinh thị giác.
Trẻ có thể được chỉ định xạ trị nếu phẫu thuật cắt bỏ không đầy đủ. Loại bỏ khối u ít khi làm trẻ không trở nên dậy thì sớm như trước.

5.2 Trẻ được điều trị dậy thì sớm bằng thuốc đồng vận hormon giải phóng GnRH
5.2.1 Thuốc có thành phần chính là Leuprolide acetate
Trên thị trường hiện nay đang có thuốc Lupron, Lupron Depot-Ped, Lupron Depot.
Thuốc này ức chế sự phát triển buồng trứng và tinh hoàn bằng cách giảm nồng độ LH và FSH. Được dùng cho trẻ có các dấu hiệu dậy thì sớm ở bé gái dưới 8 tuổi và các bé trai dưới 9 tuổi, ngừng sử dụng khi đến tuổi dậy thì.
Lupron Depot-Ped được dùng với liều hàng tháng cho trẻ tùy thuộc vào cân nặng như sau:
- Các bé dưới 25kg, hàng tháng tiêm bắp 7,5mg.
- Các bé từ 25 đến 37,5kg mỗi tháng tiêm bắp 11,25 mg.
- Và các bé từ 37,5kg trở lên thì hàng tháng tiêm bắp 15 mg.
Sau 1-2 tháng kể từ khi tiêm lần đầu, đánh giá đáp ứng của trẻ. Nếu liều khởi đầu không có hiệu quả thì tháng tiếp theo sẽ tăng liều lên.
Lupron Depot-Ped dùng liều mỗi 3 tháng 1 lần là tiêm bắp 11,25 mg hoặc 30 mg. Đánh giá đáp ứng 2 - 3 tháng sau khi tiêm liều đầu tiên và 6 tháng sau khi tiêm.
Leuprolide acetate tiêm dưới da 50 mcg/kg mỗi ngày, nếu không đạt được hiệu quả thì tăng lên 10mcg/kg/ngày, đây được coi là liều duy trì.
5.2.2 Các thuốc có thành phần là Triptorelin
Chỉ định cho dậy thì sớm trung ương ở bệnh nhân nhi từ 2 tuổi trở lên. Triptorelin ức chế tiết gonadotropin thông qua giải mẫn cảm thụ thể GnRH.
Thuốc được dùng với liều tiêm bắp 22,5mg mỗi 24 tuần một lần, dừng khi trẻ đến tuổi dậy thì.
5.2.3 Các thuốc có thành phần là Nafarelin
Khi dùng Nafarelin lâu dài, ức chế đáp ứng của gonadotrope đối với GnRH nội sinh, do đó làm giảm bài tiết LH và FSH, từ đó làm giảm sản xuất hormon kích thích buồng trứng và tinh hoàn.
Thuốc được sử dụng dưới dạng xịt mũi với liều 200 mcg/lần xịt, mỗi lần xịt 2 cái vào mỗi bên mũi, ngày dùng 2 lần.
.jpg)
5.2.4 Thuốc có thành phần Histrelin (Superlin LA)
Ức chế mạnh sự tiết gonadotropin khi dùng lâu dài. Giảm mẫn cảm với gonadotropin tuyến yên. Lượng LH và FSH ban đầu tăng sau khi dùng, dẫn đến tăng nồng độ của các tuyến sinh dục tuy nhiên khi dùng lâu dài giảm mức LH và FSH. Được chỉ định cho những trẻ dậy thì sớm do thần kinh hoặc vô căn.
Thuốc được dùng cấy ghép mỗi tháng với liều 50mg mỗi 12 tháng, dừng khi bắt đầu đến tuổi dậy thì.
Đối với trẻ dậy thì sớm được điều trị bằng chất đồng vận hormone giải phóng gonadotropin (GnRH) cần được theo dõi sau mỗi 4 - 6 tháng.
Đo tuổi xương hàng năm để xác nhận rằng sự dậy thì của bé chậm lại.
Sau khi trẻ ngừng thuốc thì lại phát triển sinh dục trở lại bình thường trong vài tháng.
Các bé gái kinh nguyệt sẽ bắt đầu trở lại sau từ 12 đến 18 tháng, chức năng sinh dục, sinh sản vẫn phát triển bình thường. Các bé trai thì vẫn sản xuất tinh trùng, cũng như chức năng sinh sản vẫn phát triển như bình thường.
6 Ngăn chặn dậy thì sớm ở trẻ em như thế nào?
Để hạn chế tình trạng dậy thì sớm ở trẻ, cha mẹ cần cho bé ăn uống một chế độ khoa học, không cung cấp dư thừa quá nhiều chất dinh dưỡng. Điều này làm trẻ dễ béo phì, và có nguy cơ cao bị dậy thì sớm. Cho trẻ ăn nhiều trái cây, rau củ, đủ lượng protein, không ăn nhiều đồ ăn nhanh, đồ uống có ga.
Đồng thời, cha mẹ cũng không nên cho trẻ ăn những hoa quả trái mùa, vì chúng được kích thích chín sớm, làm rối loạn sự phát triển của trẻ.
Đặc biệt, cha mẹ không được tự ý cho trẻ sử dụng nhiều loại thuốc bổ, thuốc và mỹ phẩm không cần thiết.

Cho trẻ có chế độ ngủ nghỉ hợp lý, khi ngủ cần tắt đèn và chỉ dùng đèn ngủ chuyên dụng.
Trẻ cần được rèn luyện tham gia hoạt động thể thao 20 đến 30 phút mỗi ngày để trẻ tăng trưởng bình thường và cân đối.
Trên đây là các thông tin cơ bản về dậy thì sớm ở trẻ, hy vọng sẽ giúp các bạn phát hiện, điều trị và dự phòng sớm cho trẻ.
Tài liệu tham khảo
- ^ Tác giả: Archana S. Kota, Sehar Ejaz (Ngày đăng: ngày 25 tháng 7 năm 2021). Precocious Puberty, NCBI. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2021.
- ^ Tác giả: Paul B Kaplowitz, MD, PhD (Ngày đăng: ngày 30 tháng 11 năm 2020). Precocious Puberty, Medscape. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2021.
- ^ Tác giả: Hansa D. Bhargava, MD (Ngày đăng: ngày 31 tháng 7 năm 2020). Precocious (Early) Puberty, WebMD. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2021.