Virus Marburg - Lời cảnh báo về một bệnh dịch nguy hiểm mới
Ngày 1/4/2023, UBND TP.Hồ Chí Minh đã ra thông báo khẩn về tình trạng dịch bệnh Marburg đang diễn ra rất phức tạp trên thế giới, có nguy cơ tràn vào Việt Nam. Đây là một bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm, với tỷ lệ tử vong cao, lên tới 88%. Trong bài viết này, Trung Tâm Thuốc Central Pharmacy sẽ cung cấp tới bạn những thông tin chi tiết và cần thiết nhất về hiểm họa này.
1 Nhiễm virus Marburg là bệnh gì và con đường lây lan
1.1 Bệnh virus Marburg và nguồn gốc
Virus Marburg gây ra bệnh nhiễm virus Marburg, trước đây gọi là sốt xuất huyết Marburg. Virus này cùng họ với virus Ebola, gây ra bệnh sốt xuất huyết nghiêm trọng ở người với tỷ lệ tử vong trung bình khoảng 50%. Tỷ lệ này biến đổi từ 24% đến 88% trong các đợt bùng phát khác nhau phụ thuộc vào chủng loại virus và cách thức xử trí ca nhiễm.
Ca nhiễm virus Marburg được báo cáo lần đầu tiên vào năm 1967 tại một thị trấn tên là Marburg ở Đức và ở Belgrade, Nam Tư (nay là Serbia). Có những đợt bùng phát đồng thời ở cả hai thành phố. Bệnh xuất hiện từ những con khỉ được nhập khẩu từ Uganda để nghiên cứu trong phòng thí nghiệm ở Marburg. Các nhân viên phòng thí nghiệm đã bị nhiễm bệnh do làm việc với các vật liệu (máu, mô và tế bào) của khỉ. Trong số 31 trường hợp liên quan đến những đợt bùng phát này, 7 người đã chết.
Sau đợt bùng phát ban đầu, các trường hợp khác đã được báo cáo ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Hầu hết là ở Châu Phi – Uganda, Cộng hòa Dân chủ Congo, Kenya, Nam Phi và gần đây là ở Guinea và Ghana. Các nghiên cứu huyết thanh học cũng đã tiết lộ bằng chứng về việc nhiễm virus Marburg trong quá khứ ở Nigeria.
Mặc dù vật chủ hoặc ổ chứa virus chưa được xác định chính xác nhưng virus này có liên quan đến loài dơi ăn quả. Vào năm 2008, đã ghi nhận 2 ca bệnh độc lập trong số các khách du lịch tới tham quan một hang động có dơi Rousettus sinh sống ở Uganda.
1.2 Virus Marburg lây qua đường nào?
Loại virus này có thể lây lan qua việc tiếp xúc với vật liệu (chất lỏng, máu, mô và tế bào) của vật chủ hoặc ổ chứa bị nhiễm bệnh. Trong trường hợp khỉ từ Uganda nhập khẩu vào Marburg, nhân viên phòng thí nghiệm rõ ràng đã bị nhiễm bệnh do tiếp xúc với mô và máu của khỉ.
Ngoài ra, nó cũng có thể lây truyền từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp (qua da hoặc niêm mạc bị tổn thương) với máu, dịch tiết, các cơ quan hoặc chất dịch cơ thể khác của bệnh nhân, cũng như với các bề mặt và vật liệu. Điều này bao gồm các vật liệu như giường và quần áo bị nhiễm các dịch lỏng này. Sự lây lan từ người sang người của virus Marburg là phổ biến nhất trong các gia đình, giữa những người chăm sóc những người bị nhiễm Marburg và trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe.
Virus Marburg cũng có thể tồn tại trong mắt và tinh hoàn của những người đã khỏi bệnh. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy chúng có thể lây lan qua tiếp xúc với dịch âm đạo ở những phụ nữ được chỉ định khi sinh đã khỏi bệnh. Ở những người mang thai, virus Marburg có thể tồn tại trong nhau thai, nước ối và sữa mẹ, vì vậy có thể lây truyền sang thai nhi và ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của bé.
Nhân viên y tế có thể bị nhiễm virus Marburg thông qua thiết bị y tế bị ô nhiễm. Các nghi lễ chôn cất có tiếp xúc trực tiếp với thi thể người chết bị nhiễm virus Marburg cũng có thể góp phần làm lây truyền virus vì các cá nhân vẫn có khả năng lây nhiễm miễn là máu của họ còn chứa virus.
Các nghiên cứu hiện vẫn được được tiếp tục tiến hành nhằm làm sáng tỏ thêm các con đường lây truyền của virus Marburg[1].
2 Ai có nguy cơ nhiễm virus Marburg?
Những người có nguy cơ nhiễm virus Marburg bao gồm những người đã tiếp xúc gần với loài dơi ăn quả châu Phi Rousettus aegyptiacus hoặc chất tiết của chúng, chẳng hạn như khách du lịch đến thăm hang động hoặc hầm mỏ có dơi bị nhiễm bệnh sinh sống ở các vùng lưu hành của châu Phi. Các cá nhân đã bị nhiễm bệnh hoặc các loài linh trưởng bị nhiễm virus Marburg cũng có thể gây ra nguy cơ nhiễm virus Marburg. Những người có nguy cơ nhiễm virus Marburg cao nhất bao gồm các thành viên trong gia đình và/hoặc nhân viên bệnh viện tiếp xúc lâu với những người bị nhiễm virus Marburg, đặc biệt nếu các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm thích hợp không được tuân thủ. Những người khác có nguy cơ mắc bệnh bao gồm những người hành nghề trong một số nghề nhất định có khả năng tiếp xúc với virus Marburg, chẳng hạn như bác sĩ thú y hoặc nhân viên phòng thí nghiệm xử lý các loài linh trưởng từ Châu Phi.
3 Dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm virus Marburg
Thời gian ủ bệnh của nhiễm virus Marburg có thể ngắn trong vài ngày hoặc kéo dài tới vài tuần, trong khoảng từ 2-21 ngày sau khi tiếp xúc với virus này. Dơi nhiễm virus Marburg không có các triệu chứng cụ thể và rõ ràng nhưng người và linh trưởng có thể xuất hiện các biểu hiện nặng hơn và nghiêm trọng hơn.
Các biểu hiện của bệnh trong thời kỳ đầu thường được đặc trưng bởi sự khởi phát đột ngột của sốt, ớn lạnh, đau đầu, đau họng, yếu ớt và đau nhức cơ. Phân lỏng có máu hoặc không có máu, đau bụng, buồn nôn, nôn mửa cũng có thể xuất hiện vào ngày thứ 3 sau khi phát bệnh. Phát ban dát sẩn hoặc nổi lên, phổ biến nhất ở ngực, lưng và/hoặc dạ dày có thể xuất hiện năm ngày sau khi bắt đầu có dấu hiệu và triệu chứng. Có nhiều trường hợp đã ghi nhận các biểu hiện xuất huyết nghiêm trọng trong 5-7 ngày sau khi phát bệnh, bao gồm các vết tụ máu và xuất huyết từ mắt, tai, mũi miệng và/hoặc trực tràng.
Càng về sau các biểu hiện sẽ càng trở nên phức tạp và diễn biến nặng hơn, có thể kể đến đau ngực, tụt cân nhanh chóng, lú lẫn, co giật, sốt cao kéo dài, viêm một hoặc hai tinh hoàn, sốc và suy nhiều cơ quan (gan, thận…). Ở các ca tử vong, chết người có thể xảy ra sau 8-9 ngày phát bệnh, đặc biệt là do mất quá nhiều máu và sốc.
Với những ca bệnh sống sót, khả năng phục hồi của bệnh nhân thường yếu và kéo dài bởi virus vẫn tồn tại trong cơ thể cho tới vài tuần sau đó. Những người này có thể gặp lại các biến chứng và di chứng như rụng tóc, viêm gan, suy kiệt, nhức đầu, viêm mắt và tinh hoàn[2].
4 Chẩn đoán và điều trị nhiễm virus Marburg như thế nào?
4.1 Chẩn đoán
Việc chẩn đoán sớm bệnh Marburg có thể là một khó khăn cho các chuyên gia vì các biểu hiện trong giai đoạn đầu của bệnh không đặc hiệu và dễ bị nhầm lẫn với các bệnh truyền nhiễm khác, như sốt rét, thương hàn, viêm màng não cũng như các bệnh sốt xuất huyết gây ra bởi virus khác. Vì vậy, các khó khăn này có thể dẫ tới chậm chẩn đoán, từ đó ngăn cản việc điều trị sớm, gây bất lợi cho cơ hội sống sót và khó khăn trong kiểm soát lây lan và bùng phát dịch.
Trong thời kỳ đầu nhiễm bệnh, nhân viên nghiên cứu có thể phát hiện sự có mặt của virus thông quan bệnh phẩm ngoáy họng và mũi, giống như đối với virus Corona, ngoài ra cũng có thể dùng mẫu dịch não tủy, mẫu nước tiểu và/hoặc mẫu máu. Các mẫu sinh học này tiềm ẩn các nguy hiểm, cần được xử lý và phân tích trong điều kiện đảm bảo an toàn lây truyền.
Các mẫu này có thể được phân tích thông qua xét nghiệm xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzyme (tức là ELISA), phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR) và ELISA thu giữ IgM để phát hiện kháng thể, kháng nguyên và protein đặc hiệu với virus Marburg. Phân lập virus bằng cách nuôi cấy tế bào cũng có thể được thực hiện trong các phòng thí nghiệm có mức độ ngăn chặn cao. IgG-bắt giữ ELISA có thể được thực hiện trong giai đoạn sau của bệnh hoặc sau khi phục hồi để xác nhận nhiễm trùng. Ở những bệnh nhân đã chết, hóa mô miễn dịch, phân lập virus hoặc PCR mẫu máu và/hoặc mô có thể được thực hiện để chẩn đoán nhiễm virus Marburg trước đó. Chất lượng, số lượng, loại, thời gian lấy mẫu và thời gian cần thiết để chuyển mẫu đến phòng thí nghiệm đều có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả phòng thí nghiệm.
4.2 Điều trị
Hiện chưa có vaccin hay thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh nhiễm virus Marburg, các ca bệnh được tiến hành chăm sóc hỗ trợ, điều trị và cải thiện các triệu chứng, thường là sau khi nhập viện, bao gồm bù dịch, bù nước, nghỉ ngơi, thở oxy nếu cần và các biện pháp phù hợp khác.
Thuốc: Thuốc được sử dụng bao gồm thuốc giảm đau, hạ sốt như Paracetamol và Dimenhydrinate và/hoặc Ondansetron để ngăn ngừa buồn nôn và nôn. Trong trường hợp mất nước, mất cân bằng điện giải, dịch truyền tĩnh mạch và/hoặc đường uống được sử dụng để bù lại lượng dịch đã mất, kiểm soát sự ổn định của điện giải và huyết áp.
Nếu xảy ra xuất huyết hoặc thất thoát yếu tố đông máu, truyền máu cũng được thực hiện. Khi xảy ra các nhiễm trùng khác, các liệu pháp chống virus và/hoặc các kháng sinh phù hợp sẽ được chỉ định.
Hiện nay, liệu pháp miễn dịch có tên là sử dụng kháng thể đơn dòng đang được nghiên cứu, phát triển và thử nghiệm để điều trị bệnh nhiễm virus Marburg. Một số liệu pháp kháng virus đã được sử dụng trên lâm sàng trong điều trị Ebola - virus có họ hàng gần với Marburg - đã được đánh giá hiệu quả với Marburg, chẳng hạn như remdesivier và favipiravir[3].
5 Phòng ngừa lây nhiễm virus Marburg
Hiện tại, không có vaccin để bảo vệ chống lại virus Marburg hoặc hạn chế sự lây lan từ những người mắc virus Marburg. Chiến lược đối phó chủ yếu hiện nay là phòng tránh, hạn chế sự lây lan của virus ra toàn cầu. Các phương pháp giảm thiểu rủi ro bao gồm giảm rủi ro lây truyền virus Marburg từ dơi sang người bằng cách đeo thiết bị bảo hộ cá nhân (PPE), chẳng hạn như khẩu trang, găng tay, kính bảo vệ mắt và đảm bảo vệ sinh tay thường xuyên khi tiếp xúc với các hang động có đàn dơi ăn quả sinh sống.
Giảm lây truyền virus Marburg từ người sang người liên quan đến việc tránh tiếp xúc gần với những người bị nghi ngờ hoặc đã xác nhận nhiễm bệnh và đeo PPE cũng như đảm bảo vệ sinh tay thường xuyên nếu cần phải tiếp xúc gần. Sự lây truyền virus Marburg từ người sang người cũng có thể giảm bằng cách tuân theo các thực hành tình dục an toàn với nam giới sống sót sau khi nhiễm bệnh trong ít nhất 12 tháng kể từ khi xuất hiện các triệu chứng hoặc cho đến khi xét nghiệm tinh dịch của họ hai lần âm tính với virus Marburg.
Các biện pháp truy vết tiếp xúc bao gồm xác định những cá nhân có thể đã tiếp xúc với người bị nhiễm virus Marburg và theo dõi bất kỳ dấu hiệu và triệu chứng nào của MVD trong 21 ngày sau khi tiếp xúc[4].
6 Tổng kết lại
Virus Marburg là một loại virus lây truyền từ động vật ban đầu được truyền từ động vật sang người. Động vật chứa virus Marburg trong tự nhiên là loài dơi ăn quả châu Phi. Virus Marburg nhân lên sau khi xâm nhập vào các tế bào chủ bị nhiễm thông qua quá trình đính kèm, nội tiết và dung hợp. Marburg có thể dẫn đến MVD, một bệnh sốt xuất huyết hiếm gặp và nghiêm trọng ảnh hưởng đến cả người và động vật linh trưởng không phải người. Nhiễm virus Marburg có thể xảy ra ở người sau khi tiếp xúc gần với động vật bị nhiễm bệnh hoặc chất dịch cơ thể của chúng và thông qua các sản phẩm thực phẩm bị ô nhiễm . Người bị nhiễm bệnh sau đó có thể lây lan virus Marburgsang người khác thông qua trao đổi máu hoặc dịch cơ thể qua da hoặc niêm mạc bị tổn thương và các đồ vật bị nhiễm dịch cơ thể. Các dấu hiệu và triệu chứng ban đầu của MVD thường bao gồm sốt, ớn lạnh, nhức đầu, đau họng , suy nhược và đau cơ. Khi MVD tiến triển, tiêu chảy, đau bụng , buồn nôn, nôn, phát ban và các dấu hiệu và triệu chứng xuất huyết nghiêm trọng cũng có thể xảy ra. Trong những trường hợp nghiêm trọng, có thể xảy ra lú lẫn, co giật , sốc, suy đa cơ quan và tử vong. MVD có thể được chẩn đoán bằng cách sử dụng gạc họng và mũi, mẫu dịch não tủy , mẫu nước tiểu và/hoặc mẫu máu. Xét nghiệm ELISA , RT-PCR, IgM và/hoặc IgG nắm bắt ELISA và phân lập virus bằng nuôi cấy tế bào cũng có thể được sử dụng trong các biện pháp chẩn đoán. Việc điều trị virus Marburg chỉ giới hạn ở việc chăm sóc hỗ trợ trong thời gian nhập viện, bao gồm nghỉ ngơi, bù nước và điều trị các triệu chứng cụ thể khi chúng xuất hiện.
Tài liệu tham khảo
- ^ Chuyên gia của WHO (Ngày đăng 07 tháng 08 năm 2021). Marburg virus disease, WHO. Truy cập ngày 08 tháng 04 năm 2023
- ^ Chuyên gia của WHO (Ngày đăng 22 tháng 03 năm 2023). Marburg virus disease - Equatorial Guinea, WHO. Truy cập ngày 08 tháng 04 năm 2023
- ^ Tác giả Katia Hetter (Ngày đăng 29 tháng 03 năm 2023). What you need to know about the Marburg virus, CNN. Truy cập ngày 05 tháng 04 năm 2023
- ^ Chuyên gia của CDC (Ngày đăng 31 tháng 03 năm 2023). Marburg (Marburg Virus Disease), CDC. Truy cập ngày 05 tháng 04 năm 2023