1. Trang chủ
  2. Sản - Phụ Khoa
  3. 2 phương pháp và 6 thang điểm đánh giá chức năng tình dục nam

2 phương pháp và 6 thang điểm đánh giá chức năng tình dục nam

2 phương pháp và 6 thang điểm đánh giá chức năng tình dục nam

Trungtamthuoc.com - Đánh giá chức năng tình dục nam bao gồm: khai thác tiền sử bệnh lý, khám lâm sàng và các phương pháp thăm dò cận lâm sàng cần thiết nhằm hỗ trợ làm rõ chẩn đoán. Các thang điểm và bộ câu hỏi liên quan đến chức năng tình đục nam được sử dụng để hiểu rõ về mức độ rối loạn chức năng tình dục.


Tải bản PDF TẠI ĐÂY

Nguồn: Sách Đại cương sức khỏe tình dục - Chương 1: Đại cương và sinh lý tình dục

Đánh giá chức năng tình dục nam

Nhà xuất bản Y học

Chủ biên: PGS.TS.BS. Lê Minh Tâm

Biên soạn

PGS.TS.BS. Tôn Nữ Vân Anh

ThS.BS. Hồ Trần Tuấn Hùng

ThS.BS. Nguyễn Đắc Nguyên

ThS.BS. Trần Thị Như Quỳnh`

1 KHAI THÁC TIỀN SỬ VÀ KHÁM LÂM SÀNG

Khai thác bệnh sử một cách đầy đủ và chính xác có thể giúp rút ra được những dấu hiệu gợi ý về bệnh lý trên bệnh nhân.

1.1 Tiền sử

Tiền sử gia đình

Tiền sử gia đình bao gồm các thông tin liên quan đến tình trạng sinh sản của bố mẹ và của anh chị em trong gia đình. Điều này có thể cung cấp các dữ liệu có ích nhằm gợi ý về một số rối loạn khả năng sinh sản do nguyên nhân di truyền. Vì vậy, cần thiết phải hỏi về số anh chị em, tuổi của họ và về con cái của họ cũng như tình trạng hiếm muộn nếu có, tình trạng hiếm muộn này đã được điều trị chưa và thành công hay không.

Tiền sử của cặp vợ chồng

  • “Mong muốn có con tích cực”. Nên khai thác bệnh sử cặp vợ chồng vô sinh, nếu được, khi có mặt đồng thời cả hai người. Điều này không những đem lại những thông tin hữu ích cho bác sĩ mà còn đòi hỏi hai vợ chồng phải hiểu biết về những phương pháp chẩn đoán và điều trị có thể sẽ được tiến hành sau này. Trước hết cần phải hỏi hai vợ chồng “mong muốn có con tích cực” bắt đầu từ khi nào, hoặc họ không còn áp dụng các biện pháp tránh thai từ lúc nào.
  •  Phương pháp tránh thai và tiên lượng có thai. Cách thức áp dụng các biện pháp tránh thai
  • Từ trước đến nay có thể có ý nghĩa với chức năng tình dục. Nếu nam giới trước đây đã được phẫu thuật triệt sản thì cần phải hỏi cách thức tiến hành phẫu thuật như thế nào.
  • Tần suất giao hợp. Nếu cặp vợ chồng khai có tần suất giao hợp thưa, cần khai thác thêm tình trạng ít giao hợp này có phù hợp với đòi hỏi về tình dục của cả hai người không, hay đây là một hiện tượng thứ phát. Nếu bệnh nhân gặp phải vấn đề trong quan hệ tình dục, bác sĩ cần phải xem xét rồi loạn này là gì (rối loạn cương dương vật, không xuất tỉnh dược, hay lãnh cảm…)

1.1.3. Tiền sử bản thân

  • Tuổi thơ và dậy thì: đề khai thác tiền sử bản thân cần bắt đầu bằng các câu hỏi về bệnh lý lúc còn nhỏ. Ví dụ: bệnh phế quản phổi hoặc viêm nhiễm vùng mũi họng lặp lại nhiều lần gợi ý đến tình trạng vô sinh do hội chứng Kartagener, hội chứng Young hay bệnh xơ nang. Những thông tin về thời điểm bắt đầu và diễn tiến của quá trình dậy thì rất có ý nghĩa. Các rối loạn đi xuống của tinh hoàn và Việt điều trị bất thường vị trí tinh hoàn (cố định tính hoàn, điều trị bảng nội khoa) là những vấn đề cũng cắn được khai thác.
  • Phẫu thuật và các bệnh lý tuyến yên: do các cấu trúc đường sinh dục nam có thể bị ảnh hưởng bởi những can thiệp phẫu thuật nhất định, kể cả phẫu thuật ở ngoài cơ quan sinh dục, ví dụ như mổ thoát vị bẹn nên cần khai thác đầy đủ tiền sử các can thiệp phẫu thuật này. Tiền sử phẫu thuật tại tuyến yên có thể dẫn đến suy chức năng tuyến yên là một trong những nguyên nhân gây vô sinh.
  • Nhiễm trùng: cần khai thác các thông tin về bệnh lý nhiễm trùng ở đường dẫn tính hoặc tỉnh hoàn. Sau khi bị một nhiễm trùng toàn thân nặng nề thì hoạt động chức năng của tỉnh hoàn cũng bị hạn chế (viêm tinh hoàn do quai bị). Ngoài ra, tình trạng tăng bạch cầu trong mẫu tinh dịch cũng gây ra các stress oxy hóa (Oxidative stress - OS) làm ảnh hưởng đến độ bền vững của DNA tính trùng, và rối loạn chức năng tỉnh trùng.
  • Thiếu hụt androgen: tình trạng thiếu androgen là một nguyên nhân vô sinh thường biểu hiện qua các triệu chứng toàn thân như: không làm việc được do sức khoẻ yếu, mất khoái cảm, rối loạn cương dương vật, rụng râu, tÓC,...

1.2 Khám thực thể

Khám tổng quát

Ngay sau khi khai thác tiền sử, bệnh nhân cần được tiến hành thăm khám tổng quát một cách toàn diện để phát hiện các bệnh lý toàn thân hoặc các rối loạn chuyển hoá, qua đó có thể xác định được tình trạng nhược năng tuyến sinh dục xuất hiện trước dậy thì, hoặc sau dậy thì.

Khám cơ quan sinh dục

  • Khảo sát dương vật và bìu: cần đánh giá cách mọc lông mu, khảo sát vị trí lỏ niệu đạo, hình dạng và kích thước của dương vật và bìu, sự lệch hướng lúc cương của dương vật và tình trạng hẹp bao quy đầu.
  • Sờ nắn: tinh hoàn được sờ nắn để đánh giá cấu trúc, mật độ, thể tích, xem thử có đủ hai tinh hoàn hai bên hai không. Việc đo độ lớn tinh hoàn có thể được tiến hành bảng các sờ và so sánh với thước.
Hình 5.1. Thước đo Prader

Mào tinh hoàn là một cấu trúc dạng dải dọc nằm dọc theo phía lưng trên của tinh hoàn. Khi có nhiễm trùng sẽ trở nên lớn hơn và cứng chắc, bệnh nhân sẽ đau nhiều khi khám. Đánh giá đám rối tĩnh mạch thừng tỉnh trong tư thế bệnh nhân đứng. Khi làm nghiệm pháp Valsalva, nếu sờ thấy sự gia tăng cuộn xoắn của đám rối tĩnh mạch thì đó là giãn tĩnh mạch thừng tinh. Ngoài ra, tiền liệt tuyến có thể được thăm khám thông qua khám trực tràng để xác định tình trạng tăng sản tiền liệt tuyến lành tính hoặc ung thư tiền liệt tuyến.

2 CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ

2.1 Phân tích tình địch đồ

Tinh dịch đồ là một xét nghiệm nhằm đánh giá chất lượng tình trùng thông qua các chỉ số mật độ, thế tích, độ di động, hình dạng tinh trùng bình thường. Dựa vào kết quả tinh dịch đồ, chúng ta có thế đánh giá một cách tổng quát về khả năng sinh sản ở nam giới. Hiện nay, các trung tâm trên thế giới đều sử dụng tiêu chuẩn theo Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization - WHO) để đánh giá kết quả phân tích tinh dịch đồ.

Bảng 5.1. Kết quả phân tích tinh dịch đồ theo WHO 2020
Chỉ số WHO, 2010
Thể tích tỉnh dịch≥1,5ml
pH≥7,2
Mật độ tinh trùng (triệu tinh trùng/mL)≥15
Tổng số tinh trùng (triệu tỉnh trùng)≥39

Độ di động (%)

PR (Tiến tới)

NP (Không tiến tới)

PR≥32 hay PR+NP≥40
Tỉ lệ sống (%)≥58
Hình dạng tinh trùng bình thường (%)≥4
Tế bào lạ (triệu tế bào/mL)≥1

Các chỉ số được đánh giá bao gồm mật độ, tỉ lệ tinh trùng di động và hình thái có thể giúp phân loại nam giới có chức năng sinh sản bình thường hoặc bất thường. Mặc dù mỗi chỉ số trên tỉnh dịch đó đều có khả năng tiên lượng khả năng sinh sản, nhưng không có chỉ số nào tỏ ra chiếm ưu thế hơn. Hơn nữa, cần hiểu rằng các ngưỡng giá trị bình thường của các chỉ số trong tinh dịch đồ không đại diện chung cho quần thể, và không thế kháng định được liệu có thể mang thai không thông qua kết quả tinh dịch đồ.

Một số kết quả bất thường tinh dịch đồ nghiêm trọng như vô tình có thế kèm theo các bệnh lý có ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng tình dục ở nam giới như: suy sinh dục do trung ương, hoặc suy tinh hoàn,... Mức độ rối loạn tinh dịch đồ càng nặng nề thì tỷ lệ mắc các rối loạn về mặt di truyền ở nam giới càng tăng cao. Trong khi đó, các bất thường di truyền là những nguyên nhân thường gặp dẫn đến những rối loạn về chức năng tình dục ở nam giới.

2.2 Xét nghiệm nội tiết

Để chẩn đoán các nguyên nhân gây nên rối loạn chức năng tình dục ở nam giới, cần phải kết hợp giữa thăm khám lâm sàng, và cần thiết trong một số trường hợp chỉ định xét nghiệm tinh dịch đồ và một số thăm dò khác, trong đó có định lượng nồng độ nội tiết nam giới. Tuy vậy, việc chỉ định xét nghiệm nội tiết dược khuyến cáo không nên áp dụng thường quy cho tất cả bệnh nhân, bởi vì nếu không có mục đích rõ ràng thì có thế vừa phát sinh thêm chi phí cho bệnh nhân nhưng lại không mang lại hữu ích gì,

Một số các rối loạn liên quan đến nội tiết như rối loạn trục dưới đồi - tuyến yên - tinh hoàn có thể ảnh hưởng đến chức năng sinh sản ở nam giới. Tuy vậy, tỉ lệ các bệnh nhân vô sinh nam do nhóm nguyên nhân này là cực hiếm trên lâm sàng. Vì vậy, đánh giá nội tiết cần được chỉ định cho các trường hợp sau: (1) bất thường tinh dịch đó, đặc biệt khi mật độ tính trùng dưới 10 triệu/ml, (2) rối loạn chức năng tình dục đã xác định, hoặc (3) có các dấu hiệu khác gợi ý cho tình trạng rối loạn nội tiết. Xét nghiệm nội tiết tối thiểu bao gồm: FSH và testosterone. Khi nồng độ Testosterone dưới 300 ng/ml thì cần thực hiện lại lần hai đánh giá nội tiết vào sáng sớm và đo theo các chỉ số: testosterone tự do, LH và prolactin. Thông thường nồng độ FSH và LH có sự biến động do sự tiết ra theo dạng xung. Mặc dù vậy, việc xét nghiệm nội tiết chỉ được khuyến cáo nên thực hiện một lần là đủ. Mối liên quan giữa testosterone, LH, FSH và PRL sẽ giúp chúng ta đánh giá và xác định các nhóm nguyên nhân dẫn đến bất thường nồnng độ testosterone.

Bảng 5.2. Biến đổi nội tiết ở một số các bệnh lý
Tình trạng lâm sàngFSHLHTPRL
Chức Năng sinh sản bình thườngBình ThườngBình ThườngBình ThườngBình Thường
Suy sinh dục nguyên phát (rối loạn hoạt động trục hạ đồi tuyến yên)ThấpThấpThấpBình Thường
Rối loạn sinh tổng hợp tính trùng Cao/bình thường.Bình ThườngBình ThườngBình Thường
Suy sinh dục thứ phát CaoCaoBình thường/thấpBình Thường
U tuyến yên (u tăng tiết prolactinBình Thường/CaoBình Thường/CaoThấpCao

2.3 Siêu âm

Hình ảnh cấu trúc đường sinh dục nam có thể được đánh giá một cách dễ dàng và chính xác bằng kỹ thuật siêu âm. Đây là kỹ thuật có độ nhạy không xâm lấn, an toàn với giá thành thấp nhưng độ đặc hiệu khá cao để khảo sát chẩn đoán các bệnh lý bất thường bên trong bìu. Các chỉ số từ siêu âm bìu có thể cung cấp thông tin hữu ích nhằm tiên lượng chức năng sinh sản nam giới. Các bất thường liên quan tính hoàn xuất hiện ở 40-65% các trường hợp nam giới rối loạn chức năng sinh sản, tuy nhiên, có đến 60-70% các trường hợp không được xác định qua thăm khám lâm sàng.

Theo Hội Niệu học châu  u, việc siêu âm bìu có thể giúp phát hiện các dấu hiệu của sỏi nhỏ tinh hoàn. Trong khi đó, siêu âm Doppler mào tinh hoàn lại đưa thêm nhiều dữ liệu liên quan đến các bệnh lý như viêm tinh hoàn, tràn dịch màng tinh hoàn, đau bất thường tỉnh hoàn. Doppler có khả năng phân biệt được các nguyên nhân gây đau mạn tính ở tinh hoàn như: tình trạng tràn dịch đơn thuần với ung thư tinh hoàn. Đối với giản tính mạch thừng tinh, siêu âm bìu là phương tiện bắt buộc để có thể chẩn đoán và phân loại mức độ. Giãn tĩnh mạch thừng tinh là một trong những nguyên nhân dẫn đến suy giảm chức năng tình dục ở nam giới. Bên cạnh đó, một túi tỉnh đường kính trong 15mm và ống phóng tính trén 2.3mm là dấu hiệu của tắc nghẽn ống phóng tinh, đặc biệt nếu tồn tại hình ảnh của khối u hoặc tình trạng xơ hóa đường dẫn tỉnh.

Hình 5.2. Hình ảnh siêu âm qua trực tràng
(a) túi tỉnh, (b) ống dẫn tinh, (c) túi tỉnh và ống dẫn tinh, (d) ống phóng tỉnh

3 CÁC THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG TÌNH DỤC NAM GIỚI

Rối loạn chức năng tình dục ở nam giới là vấn đề rất được quan tâm bởi sự ảnh hưởng tiêu cực của nó đến chất lượng cuộc sống cũng như hạnh phúc gia đình và lứa đôi. Khác với rối loạn chức năng tình dục ở phụ nữ, rối loạn chức năng tình dục ở nam giới có liên quan đến hai tình trạng khá cụ thế là rối loạn chức năng cương dương và xuất tỉnh sớm. Do vậy, các nhà thực hành lâm sàng đã phát triển bộ câu hỏi tự đánh giá nhằm phát hiện và đo lường mức độ từng loại rối loạn.

Hai bộ câu hỏi đã được chuẩn hóa thường được sử dụng là: chỉ số quốc tế về chức năng cương dương (International Index of Erectile Function - IIEF) và Bộ câu hỏi chấn đoán xuất tỉnh sớm (Premature Ejaculation Diagnostic Tool - PEDT). Đây được xem là phương pháp rất hữu hiệu bởi những ưu điểm mà nó mang lại như thuận tiện, người trả lời có đủ thời gian cần thiết để suy nghĩ từ đó đưa ra được câu trả lời thích hợp, đặc biệt là tạo không gian riêng tư đem lại cảm giác thoải mái cho người trả lời.

Tuy vậy, Hội niệu học Hoa Kỳ văn chưa chắc chắn về tính thống nhất và áp dụng thường quy của các bảng câu hỏi đối với chẩn đoán lâm sàng rối loạn tình dục nam giới. Chẩn đoán chính vẫn cần thiết thông qua khai thác lâm sàng.

Ở tất cả các thang đo hoặc công cụ đo lường; hai yêu cầu cơ bản và cần thiết đối với các công cụ đó là độ tin cậy và giá trị: độ tin cậy đề cập đến tính nhất quán hoặc khả năng nhân rộng của dữ liệu, các “hệ số” về độ tin cậy đóng vai trò là chỉ báo chính thức về tính nhất quán của phép đo. Những điều này cần được báo cáo ở mọi thang đo hoặc bảng câu hỏi. Trái ngược với tính nhất quán của phép đo, giá trị hay còn gọi là khả năng xác định bản chất của những gì đang được đo lường; giúp phản ánh mức độ rối loạn tình dục ở bệnh nhân một cách chính xác.

Các phép đo hoặc bảng câu hỏi tự điển có thể cung cấp thông tin hữu ích, định lượng về nhiều khía cạnh hoặc lĩnh vực của chức năng tình dục. Hầu hết các câu hỏi chỉ đề cập đến chức năng tình dục hiện tại và không thể thay thế cho tiền sử các rối loạn tình dục chuyên sâu. Ngoài ra, định dạng tiêu chuẩn của bảng câu hỏi có thể không phù hợp để đánh giá tùy thuộc vào nhu cầu và kinh nghiệm của một bệnh nhân cụ thể hoặc bối cảnh rối loạn chức năng tình dục của bệnh nhân.

Các bảng câu hỏi về chức năng tình dục đã được thiết kế trong các quần thể dị tính và yêu cầu sự thích ứng để được sử dụng trong các quần thể không dị tính. Một mối quan tâm khác về tính phù hợp trong y học tình dục là khả năng gợi ra những phản ứng mong muốn về mặt xã hội đối với một số câu hỏi nhất định. Vì tất cả những lý do này, bảng câu hỏi không nên được sử dụng để thay thế cuộc phỏng vấn nhằm chẩn đoán hoặc khai thác tiền sử toàn diện về bệnh lý, tình dục và tâm lý xã hội. Các bác sĩ lâm sàng cần cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong đó lấy bệnh nhân làm trung tâm và cần tổng hợp thông tin một cách thích hợp từ bảng câu hỏi tự điền bởi bệnh nhân cùng với thông tin nhận được từ cuộc phỏng vấn và các quy trình chẩn đoán khác. Đây là một khái niệm cốt lõi trong y học tình dục.

3.1  Lựa chọn thang điểm đánh giá phù hợp

Dù cho mục đích thực hành lâm sàng hay nghiên cứu, quá trình chọn bảng câu hỏi thích hợp có thể bao gồm các bước sau:

a/ Xác định những gì bạn muốn đo lường và mục đích sử dụng.

b/ Nghĩ ra những cách khác có thể giúp xác định và đo lường biến số hoặc khái niệm quan tâm và xem xét liệu bảng câu hỏi có phù hợp với nhu cầu.

c/ Xem xét các phép đo thay thế (xin lời khuyên của chuyên gia và tiến hành tìm kiếm tài liệu khi cần thiết).

d/ Xem xét các thuộc tính tâm lý của thang đo đã chọn, bao gồm cả độ nhạy và độ đặc hiệu của thang điểm.

e/ Xem xét tính khả dụng, chi phí và thời gian thực hiện của thang điểm.

f/ Xem xét mức độ phù hợp với mục tiêu và cần nhắc tính khả thi cũng như phản ứng của bệnh nhân.

g/ Đảm bảo rằng bạn và đồng nghiệp của bạn có thể tự hoàn thành trả lời bộ câu hỏi trước khi dùng cho

bệnh nhân.

h/ Đảm bảo rằng bạn đã hiểu đầy đủ về cách tính điểm và phân loại chẩn đoán.

3.2 Một số thang điểm chẩn đoán thường gặp

 Chỉ số quốc tế về chức năng cương dương (International Index of Erectile Function - IIEF)

Rối loạn cương dương đặc trưng bởi tình trạng đương vật không cương hoặc không có khả năng duy trì sự cương cứng đủ để quan hệ tình dục hoặc cả hai. Bộ câu hỏi Chỉ số quốc tế về chức năng cương dương (International Index of Erectile Function - IIEF) được Rosen và cộng sự xây dựng vào năm 1997, sau đó tiếp tục phát triển thêm 2 công trình nghiên cứu và công bố qua 3 bài báo từ năm 1999 đến 2000, 

Quá trình xây dựng và chuẩn hóa được tiến hành rất chặt chẽ, công phu và chuyên nghiệp. Bên cạnh việc chẩn đoán mức độ nghiêm trọng của rối loạn cương dương, IIEF còn là công cụ khách quan nhằm đánh giá mức độ đáp ứng của quá trình điều trị.

Về nội dung, bảng IIEF gồm 15 câu hỏi đề cập đến năm lĩnh vực: chức năng cương của dương vật (6 câu), sự thỏa mãn khi quan hệ tình dục (3 câu), cực khoái (2 câu), sự ham muốn tình dục (2 cầu) và sự thỏa mãn tình dục toàn diện (2 câu). Mỏi mục đưa ra 5 câu trả lời từ 1-5 theo mức độ tốt dần, có điểm 0 ở một số câu hỏi dành cho người không hoạt động tình dục trong khoảng thời gian đánh giá khoảng 4 tuần. Điểm số của mỗi mục được tính bằng cách cộng điểm của từng câu hỏi thuộc lĩnh vực đó. Tổng điểm của IIEF chính là tổng điểm của 5 mục, từ 5 đến 75 điểm. Trong đó, chỉ có lĩnh vực về chức năng cương dương xây dựng được ngưỡng để chẩn đoán rối loạn cương khi số điểm < 25 với các mức độ rối loạn khác nhau: mức độ nhẹ (22-25), nhẹ - trung bình (17-21), trung bình (11-16) và mức độ nặng (< 10). Chính vì vậy, điểm số của chức năng cương dương là giá trị hợp lệ để so sánh giữa các nhóm đối tượng, đánh giá tỷ lệ cũng như khảo sát các yếu tố liên quan đến rối loạn cương dương trong các nghiên cứu, bên cạnh đó còn cho thấy sự khác biệt trước và sau khi điều trị. Bốn lĩnh vực còn lại cũng được xây dựng để góp phần phản ánh các tác động khác của rối loạn cương dương. Có thể thấy tổng điểm IIEF có giá trị hơn trong đánh giá mức độ rối loạn cương dương so với điểm số của chỉ riêng lĩnh vực chức năng cương. Tuy nhiên, tổng điểm IIEF vẫn chưa có ngưỡng cụ thể để chẩn đoán rối loạn cương dương.

Bộ câu hỏi IIEF được xem là “tiêu chuẩn vàng” nhằm đo lường và đánh giá mức độ rối loạn cương dương, được sử dụng rất rộng rãi trên toàn thế giới, đặc biệt là trong các thử nghiệm lâm sàng đa quốc gia Người ta ước tính tỷ lệ rối loạn cương dương ở các quốc gia có sự khác biệt, như khoảng 19-25% ở Mỹ, Đức, Ý, Anh và 12-13% ở Pháp và Tây Ban Nha. Trong nghiên cứu về lão hóa nam giới được thực hiện tại Massachusetts, có đến 52% nam giới cho biết họ bị rối loạn cương dương dù ở một mức độ nào đó. Tính đến năm 2014, IIEF đã được trích dẫn cho khoảng 2700 bài báo và các nghiên cứu thực tế lâm sàng,điều đó cho thấy bộ câu hỏi có tính ứng dụng cao.

Hình 5.3. Chỉ số quốc tế về cương dương

Điểm cần lưu ý

Tương tự như bộ câu hỏi về rối loạn chức năng tình dục nữ (Female Sexual Function Index - FSFI), khi sử dụng bộ câu hỏi IIEF cũng cần chú ý đến trường hợp đối tượng không hoạt động tình đục trong tuần vừa qua. Một số câu hỏi trong bảng IIEF có đưa ra lựa chọn “0” cho những người không tham gia hoạt động tình dục trong thời gian này. Tuy nhiên khi xử lý thống kê rất có thể làm cho kết quả bị sai lệch. Điều này cần được khắc phục bằng một số giải pháp như: loại đối tượng này ra khỏi nghiên cứu hoặc có thể thay thế điểm 0 bằng điểm trung bình của toàn bộ dữ liệu.

Bộ câu hỏi chẩn đoán xuất tính sớm (Premature Ejaculafion Diagnostic tool - PEDT)

Xuất tỉnh sớm được định nghĩa là tình trạng xuất tĩnh xảy ra sớm hơn sự mong muốn của bản thân, ngay sau khi dương vật thâm nhập vào âm đạo và có sự kéo dài, lặp lại suốt đời. Bộ câu hỏi chấn đoán xuất tỉnh sớm (PEDT) được Symonds và cộng sự xây dựng vào năm 2007 nhằm đánh giá sức khỏe tình dục nam giới về xuất tỉnh sớm, sau đó phát triển thêm một nghiên cứu công bố cùng năm để tiếp tục củng cố giá trị hiệu lực và độ tin cậy của PEDT.

Bảng câu hỏi PEDT gồm 5 câu hỏi đánh giá về khả năng kiểm soát xuất tinh, sự kích thích tối thiểu, mức độ ảnh hưởng của xuất tỉnh sớm đến bản thân và đến mối quan hệ với bạn tình. Ngưỡng chẩn đoán xuất tỉnh sớm cũng đã được xác định dựa vào tổng điểm của 5 câu hỏi, với số điểm 9-10 được cho là có thể mắc xuất tỉnh sớm và chắc chắn xuất tỉnh sớm nếu số điểm > 11. Ngoài ra, ngưỡng chẩn đoán của PEDT còn dựa vào thời gian trì hoãn xuất tỉnh trong âm đạo (Intravaginal Ejaculatory Latency Time - IELT) dưới hoặc bảng 2 phút. Khi so sánh ngưỡng chẩn đoán của PEDT với đánh giá lâm sàng từ các chuyên gia đầu ngành - là những người có nhiều năm kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị xuất tình sớm cho thấy sự tương quan khá cao (hệ số tương quan đạt 0,8 đối với ngưỡng chẩn đoán > 11 điểm và 0,73 với ngưỡng chẩn đoán > 9 điểm).

Cho đến nay, có thể tìm thấy gần 100 nghiên cứu trong y văn có sử dụng bảng câu hỏi PEDT tại nhiều vùng địa lý, nhiều đối tượng khác nhau và chủ yếu để chẩn đoán tỷ lệ xuất tỉnh sớm trong các nghiên cứu dịch tễ học. Trong một bài phân tích tổng quan gần đây nhất của Altho và cộng sự về các bộ câu hỏi đánh giá xuất tinh, cho thấy PEST là công cụ thường được sử dụng nhất. Tương tự như bộ câu hỏi chỉ số quốc tế về chức năng cương dương - IIEF, PEDT cũng đánh giá chức năng tình dục trong 4 tuần vừa qua nên cũng sẽ có điểm đáng lưu ý dành cho đối tượng không quan hệ tình dục trong thời gian nghiên cứu.

Bộ câu hỏi về sức khỏe tình dục nam (Male Sexual Health Questionnaire - MSHQ)

Bộ câu hỏi này nhằm đánh giá chức năng tình dục và sự hài lòng về tình dục ở nam giới lớn tuổi với các triệu chứng niệu sinh dục. MSHQ được phát triển dựa trên bằng chứng về mối liên hệ giữa các triệu chứng phó biến của các bệnh lý đường tiết niệu dưới ở nam giới tuổi trung niên và lão hóa với các vấn đề về cương dương và xuất tinh, và thang do có thể được sử dụng đế đánh giá các vấn đề về cương dương và xuất tinh. Độ tin cậy và giá trị của bảng câu hỏi đã được chứng minh trong các nghiên cứu giá trị phản biệt. Các biến số đánh giá chức năng tình dục cho thấy mức độ nhất quán và độ tin cậy cao. Rốii loạn xuất tỉnh có mối tương quan cao với mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng đường tiết niệu dưới và tương quan nghịch với sự hài lòng khi giao hợp được do bảng IIEF.

Những lợi thế tiềm năng của MSHQ bao gồm sự nhạy cảm về văn hóa, dễ hiểu, tập trung vào xuất tinh, và các vấn đề về rối loạn cương dương vật ở nam giới lớn tuổi. Các nghiên cứu trong tương lai cần tập trung vào độ nhạy cảm với điều trị và điểm giới hạn cho mục đích chẩn đoán và phân loại bằng thang điểm MSHQ. Một dạng ngắn gồm bốn mục của MSHQ liên quan đến rối loạn xuất tình, với ba mục chức năng xuất tỉnh và một mục về sự khó chịu khi xuất tính, cũng đá giúp đánh giá về mặt tâm lý học liên quan đến các rối loạn xuất tỉnh.

Hình 5.4. Bộ câu hỏi chẩn đoán xuất tinh sớm
Câu hỏi chẩn đoán xuất tinh sớm

Bộ câu hỏi về tình trạng xuất tỉnh sớm (Premature Ejaculation Profile - PEP)

PEP là một bảng câu hỏi ngắn gọn, tự đánh giá được sử dụng để đánh giá bốn thành phần của xuất tỉnh sớm bao gồm: sự hài lòng với quan hệ tình dục, kiểm soát xuất tỉnh, tâm lý căng thẳng liên quan đến xuất tỉnh, và sự khó khăn giữa các bạn tình khác nhau. Mỏi mục trong số bốn mục riêng lẻ được đánh giá theo thang điểm năm và điểm số được tính trung bình để cung cấp điểm số xuất tính sớm PE. Phép đo đã được sử dụng trong các nghiên cứu quan sát và thử nghiệm lâm sàng về PE. Nó cũng được khuyến nghị sử dụng trên lâm sàng để đánh giá các triệu chứng của rối loạn xuất tình.

Thang điểm đánh giá hiệu quả điều trị

Các bác sĩ lâm sàng và các nhà nghiên cứu cần có khả năng đánh giá kết quả điều trị. Xuất phát từ lý do này, các thang đo cụ thể đã được phát triển để đánh giá sự hài lòng và kết quả điều trị đối với các vấn đề cụ thể, chủ yếu là rối loạn xuất tinh. Ngoài ra, điều quan trọng là có thể đánh giá các vấn đề về chất lượng cuộc sống liên quan đến các mối quan tâm về y học tình dục. Một ứng dụng tiềm năng khác của các phép đo này là trong y học pháp y.

Bản kiểm kê sự hài lòng về điều trị rối loạn cương dương (The Erectile Dysfunction Inventory of Treatment Satisfaction - EDITS) là một công cụ hợp lệ và đáng tin cậy để đánh giá sự hài lòng về điều trị ở nam giới bị rối loạn cương dương và bạn tình của họ. Thang đo có đủ độ tin cậy, giá trị tát và đã được sử dụng rộng rãi để đánh giá sự hài lòng với kết quả điều trị cho bệnh nhân xuất tình sớm.

Bảng 5.3. Bản kiểm kê sự hài lòng về điều trị rối loạn cương dương
Câu hỏiCâu trả lờiĐiểm
1. Bạn cảm thấy hài lòng với phương pháp điều trị này không?

Rất hài lòng 

Phần nào hài lòng

Cả hài lòng lẫn không

Phần nào không hài lòng

Không hài lòng

4

3

2

1

0

2. Trong suốt 4 tuần điều trị, thời gian gặp mặt các chuyên gia điều trị như thế nào?

Toàn bộ thời gian điều trị

Thường xuyên

Một nửa thời gian

Rất ít

Không gặp

4

3

2

1

0

3. Mức độ mong muốn được tiếp tục tham gia điều trị bằng phương pháp này?

Rất thích

Thích vừa

Vừa thích vừa không

Dường như không thích

Không thích

4

3

2

1

0

4. Trong suốt 4 tuần, sự dễ chịu của bạn khi được điều trị bằng phương pháp này?

Dễ dàng

Dễ trung bình

Vừa dễ vừa khó

Khá khó khăn

Rất khó

4

3

2

1

0

5. Trong suốt 4 tuần, bạn cảm thấy hài lòng như thế nào với thời gian mỗi lần điều trị?

Rất hài lòng

Phần nào hài lòng

Cả hài lòng lẫn không

Phần nào không hài lòng

Không hài lòng

4

3

2

1

0

6. Trong suốt 4 tuần, bạn cảm thấy hài lòng như thế nào với thời gian liệu trình điều trị?

Rất hài lòng

Phần nào hài lòng

Cả hài lòng lẫn không

Phần nào không hài lòng

Không hài lòng

4

3

2

1

0

7.Sự tự tin khi quan hệ tình dục của bạn sau khi điều trị như thế nào?

Rất tự tin

Tự tin một phần

Không có tác dụng

Ít tự tin

Không hề tự tin

4

3

2

1

0

8. Bạn suy nghĩ như thế nào về sự hài lòng của đối tác sau khi bản thân được điều trị?

Rất hài lòng

Phần nào hài lòng

Cả hài lòng lẫn không

Phần nào không hài lòng

Không hài lòng

4

3

2

1

0

9. Đối tác của bạn mong muốn như thế nào về | Rất mong muốn sự tiếp tục điều trị của bạn? 

Khuyến khích

Không có ý kiến

Nên dừng lại

Bắt buộc dừng lại

4

3

2

1

0

10. Sự tự nhiên của bạn khi đạt được xuất tỉnh sau 4 tuần điều trị?

 

Rất tự nhiên

Khá tự nhiên

Bình thường

Ít tự nhiên

Không tự nhiên

4

3

2

1

0

11. So với trước khi điều trị, sự không tự nhiên khi cương cứng xảy ra như thế nào ở hiện tại?

Rất Ít

Ít

Không thay đổi

Khá thường xuyên

Rất thường xuyên

4

3

2

1

0

Giống như EDITS, Thang đo mức độ hài lòng về điều trị (the Treatment Satisfaction Scale-TSS) được thiết kế để đánh giá mức độ hài lòng về điều trị ở các bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu rối loạn cương dương. Ngoài ra, người ta đã chứng minh rằng việc đánh giá quan điểm của bệnh nhân và đối tác về sự hài lòng trong điều trị là một công cụ bổ sung có giá trị để đánh giá các hiệu quả một cách truyền thống hơn. Các nhà phát triển công cụ này đã kết luận rằng “TSS tương quan tốt với các biện pháp được chấp nhận rộng rãi khác, nhưng không trùng lặp kết quả của chúng.” Đây là một công cụ đáng tin cậy và đã được kiểm chứng để đánh giá hiệu quả đáp ứng và hiệu quả điều trị từ quan điểm của bệnh nhân và bạn tình của anh ta.

Tóm lại, quá trình đánh giá chức năng tình dục nam cần phải tiến hành khai thác tiền sử bệnh lý, thăm khám lâm sàng và các phương pháp thăm dò cận lâm sàng cần thiết nhằm hỗ trợ làm rõ chẩn đoán.

Các thang điểm và bộ câu hỏi liên quan đến chức năng tình dục nam được sử dụng để hiểu rõ về mức độ rối loạn chức năng tình dục. Cả hai bộ câu hỏi trong hướng tới việc đánh giá rối loạn chức năng tình dục ở nam giới với nhiều ưu điểm: ngắn gọn, dễ hiểu, dễ chấp nhận, đạt tiêu chuẩn của trắc nghiệm tâm lý và đã dần được củng cố mạnh mẽ về độ tin cậy cũng như hiệu lực đo lường thông qua quá trình phát triển nhiều phiên bản mới với nhiều ngôn ngữ ở các vùng lãnh thổ khác nhau trên toàn cầu. Tuy nhiên, các chuyên gia khi sử dụng bộ câu hỏi để đo lường cần hiểu rõ chúng, làm sáng tỏ những tranh luận từ y văn, lưu tâm đến những hạn chế và tìm hướng khắc phục nếu có để từ đó ứng dụng vào nghiên cứu và thực hành lâm sàng phù hợp.

4 TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ghuman, Ramalingam M, (2018),"Male infertility", Obstetrics, Gynaecology ớ Reproductive Medicine, 28(1),pp.7-14.

2. Guidelines. E A o U, (2018), "ISBN 978-94-92671-01-1", Mal Infertility.

3. Javed A, Talkad, M. S., & Ramaiah, M. K„ (2019), "Evaluation of sperm DNA fragmentation USing multiple methods: A comparison of their predictive power for male infertility', Technical and Experiment| Reproductive Medicine, 46 pPP.1421.

4. Le MT, Nguyen D N, Le D D, Tran N Q T, (2020), "Impact of body mass index and metabolic syndrome on sperm DNA fragmentation in males #rom infertile couples: Across-sectional study from Vietnam”, etanol Open, 7 pp. 100054.

5. Mittal P K, (2017), "Role of Imaging in the Evaluation of Male Infertility", Radio Graphics.

6. Practice Committee of the American Society for Reproductive M, (2015), "Diagnostic evaluation oƒ the infertile male: a committee opinion", Feril Steril, 103 (3),pp.e18-25.

7. Hatzichristou, Dimitris; Kirana, Paraskevi-Sofia; Banner, Linda; Althof, Stanley E.; Lonnee-Hoffmann, et al. (2016). Diagnosing Sexual Dysfunction in Men and Women: Sexual History Taking and the Rol of Symptom Scales and Questionnaires. The Journal ofScxual Medicine, 13(8), 1166-1182.

8. Raymond C. Rosen; Joseph A. Catania; Stanley E. Althof, Lance M. Pollack; Michael O'Leary; Allen D.Seftel; David W. Coon (2007). Development and Validation oƒ Four-tern Version oƒ Male Sexual Health Questionnaire to Assess Ejaculatory lDysfunction, 69(S), 0-809.

5 CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ

Câu 1. Hội chứng Young không bao gồm biểu hiện nào dưới đây:

A. Viêm xoang.

B. giãn phế quản.

C. Vô tinh do tắc nghẽn.

D. Đảo ngược phủ tạng.

E. Tất cả các biểu hiện trên đều thuộc hội chứng Young.

Câu 2. Xét nghiệm nội tiết tối thiểu để đánh giá chức năng tình dục nam giới bao gồm:

A. FSH và LH.

B. FSH và testosterone.

C. LH và testosterone.

D. FSH, LH và testosterone.

E. LH và prolactin.

Câu 3. Dấu hiệu nào trên siêu âm đường trực tràng không phải là dấu hiệu gợi ý tắc nghẽn ống phóng tỉnh (EDO):

A. Nang ở đường giữa tuyến tiền liệt.

B. Giãn túi tỉnh (215mm).

C. Giãn bóng ống dẫn tỉnh (> 6mm).

D. Giãn ống phóng tỉnh (> 2,3mm).

E. Tất cả các dấu hiệu trên đều có thể gợi ý EDO.

Câu 4. Nồng độ testosterone thấp khi

A. <100ng/dL.

B. <200ng/dL.

C. <300ng/dL.

D. <400ng/dL.

E. <500ng/dL.

Câu 5. Thang điểm nào sau đây dùng để đánh giá rối loạn cương dương

A. IIEE.

B. PEDT.

C. FSEI

D. PEP.

E. Cả 4 Thang điểm trên.


* SĐT của bạn luôn được bảo mật
* Nhập nếu bạn muốn nhận thông báo phẩn hồi email
Gửi câu hỏi
Hủy
    (Quy định duyệt bình luận)
    0/ 5 0
    5
    0%
    4
    0%
    3
    0%
    2
    0%
    1
    0%
    Chia sẻ nhận xét
    Đánh giá và nhận xét
      vui lòng chờ tin đang tải lên

      Vui lòng đợi xử lý......

      0 SẢN PHẨM
      ĐANG MUA
      hotline
      1900 888 633